Nguyễn Công Trứ ngông ngạo đến mức nào mà vua Minh Mạng phải thốt lên "giỏi nhưng vẫn là thằng cuồng"
Trong thời gian trị vì, vua Minh Mạng không chỉ được ca ngợi là vị vua anh minh mà gắn với cuộc đời ông còn có nhiều giai thoại lạ. 1 trong số đó là giai thoại liên quan đến đại thần Nguyễn Công Trứ.
Minh Mạng (25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) hay Minh Mệnh, là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi ông qua đời, được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Thánh Tổ. Ông là vị vua có nhiều thành tích nhất của nhà Nguyễn. Đây được xem là thời kỳ hùng mạnh cuối cùng của chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ Đại Nam thời nhà Nguyễn. Ông làm quan qua các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Ông nổi bật về việc khai hoang, mộ dân ở trung châu miền Bắc Việt Nam, và lập nhiều chiến công trong việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình và trong Chiến tranh Việt–Xiêm (1841–1845).
Từ giấc mơ lạ bên hồ Tĩnh Tâm
Sách "kể chuyện các vua nhà Nguyễn" viết: Kho Kỷ Mão năm 1819, Minh Mạng lúc ấy là Đông Cung Thái tử (Nguyễn Phúc Đảm) - con trai thứ 4 của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang. Thái tử ra hồ Tĩnh Tâm chơi, tinh thần thấy mệt mỏi, bèn nằm võng thiu thiu ngủ... Bỗng một người học trò tự xưng là học giả Lam Sơn đến hầu.
Thái tử thấy người học trò, đầu đội mũ cỏ, tay cầm cây gậy nhọn xiên qua mặt trời và tự nhiên mặt trời đùn đùn lên một đám mây đen sì, rồi tối sầm lại. Người học trò giơ gậy lên vẫy thì đám mây đen tan ngay, trời sáng bừng lên.
Thái tử Đảm về cung, đem chuyện nằm mộng hỏi thị thần. Quan Thái bộc đã đoán: "Người học giả đầu đội nón cỏ là học trò, tên y có chữ Giả, thêm thảo dầu (mũ cỏ), là chữ Trứ. Chữ Trứ có nét phẩy sát qua chữ nhật, tức là cái gậy xiên qua mặt trời. Từ Lam Sơn lại, người ấy tất quê ở Nghệ An, Hà Tỉnh. Đám mây đen đùn lên ở mặt trời là điềm sau này biên thùy có loạn. Người ấy cầm gậy vẫy, mà đám mây đen tan, là điềm người ấy sau này sẽ dẹp tan giặc. Vậy, xin Điện hạ nghiệm xem khoa này có ai tên là Trứ ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh thi đỗ không?".
Đến việc tìm hiền tài cho quốc gia
Nghe lời triều thần, đến khi quan trường chấm xong, đệ danh sách vào Bộ Duyệt, thấy tên Nguyễn Công Trứ đỗ thủ khoa, Thái tử Đảm mừng là ứng điềm mộng, quốc gia đã tìm ra nhân tài chân chính. Thế là khoa thi ấy, các quan chấm trường đều được thưởng một cấp.
Nói về Nguyễn Công Trứ, nhiều tài liệu nhận xét: Hành trình chốn quan trường đã biến ông thành một mắt xích quan trọng trên bàn cờ chính trị của nhà vua mới đang xác lập (ý là vua Minh Mạng sang khi đăng cơ). Ông đến với hệ thống quan lại muộn (lúc 41 tuổi) nhưng bước vào thời đại mới đúng lúc.
Trong thời gian làm quan, Nguyễn Công Trứ cũng thấy nhà Nguyễn có nhiều chính sách hà khắc. Chính vì vậy mà nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp xảy ra, buộc ông phải cầm quân, làm tướng.
Theo sử sách, vào tháng 2 năm Bính Tuất (1826), Phan Bá Vành nổi dậy ở vùng châu thổ sông Hồng (thuộc các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng và Nam Định ngày nay). Bá Vành lập mưu, đưa quan quân triều đình rơi vào ổ phục kích khiến mất sạch khí giới thuyền bè, quan quân các trấn thuộc Bắc thành phải co rụt lại.
Tiếp đến, thừa thắng xông lên, quân của Bá Vành chiếm thế thượng phong tại cửa sông Văn Úc (Hải Phòng ngày nay), chém viên Thần sách thập cơ Hùng Cự, bắt viên Ðốc phủ Tiên Hưng nhưng không thèm giết, mà làm nhục cạo trọc tóc, thả cho về...
Khi ấy triều đình nhà Nguyễn có trao giải thưởng lớn cho ai bắt được những kẻ đầu đảng: Bá Vành, tên Hạnh, tên Bàng thì được thưởng mỗi tên là 300 lượng. Qua gần một năm, quan quân tại Bắc thành không dẹp được. Đến mùa xuân năm Đinh Hợi (1827), vua Minh Mạng bèn sai Binh tào Thị lang Nguyễn Công Trứ làm quan mưu, mang đạo quân Long phi Hổ dược từ kinh đô ra Bắc. Đoàn quân gây sức ép, khiến Phan Bá Vành phải cho quân rút về Trà Lũ xây lũy để cố thủ. Quân triều đình vây luỹ, rồi Nguyễn Công Trứ dựa vào tính kiêu ngạo của Phan Bá Vành, lập mưu đánh tan đại quân phản loạn trong một ngày.
Sách Đại Nam thực lực có ghi: "Vào ngày 26 tháng 2, Vành dạo hồ khao quân, Trứ sai ca kỹ vài người mở tiệc ca hát. Rồi mật ước, quan quân trữ sẵn hơn 500 sọt đựng cát, khi có hoả hiệu, quan quân mang cát lấp đường thuỷ rồi vây luỹ. Vành cho mở rạch thông nước, nhưng nước cạn thuyền không hoạt động được. Quan quân giáp công, bắt được tên Ðán, tên Liễn, tên Thê, tên Thự, hơn 10 người, chém đầu mấy trăm, số nhảy xuống nước chết hàng ngàn. Vành bị đạn bắn trúng đùi, bị bắt; tên Hạnh, tên Hương theo bến cảng trốn ra biển. Vành cùng với Liễn bị giam giải đến Bắc Thành, Vành cắn lưỡi mà chết, Ðán, Liễn bị xử lăng trì….”.
Nguyễn Công Trứ tổ chức đánh đâu thắng đó. Năm 1833, dẹp khởi nghĩa Nông Văn Vân. Năm 1835, dẹp giặc Khách. Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc...
Bên cạnh những chiến công hiển hách ấy, sử sách còn khắc ghi công lao to lớn của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ trong việc khai phá bãi biển lập nên 2 huyện là Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình), cùng với cách bố trí hệ thống thủy lợi rất khoa học, cách bố trí dân cư rất hợp lý. Dân ở hai huyện trên đều đã lập đền thờ Nguyễn Công Trứ để hàng năm hương khói tri ân người đã khai sinh ra mảnh đất “núi vàng, biển bạc” ở đồng bằng Bắc bộ.
Vua Minh Mạng - Công Trứ giỏi nhưng vẫn chỉ là "thằng cuồng"
Dưới thời vua Minh Mạng, Nguyễn Công Trứ đã góp mặt tại 3 sân khấu chính:
- Thứ nhất là giải quyết tình hình Bắc thành sau cái chết của Lê Chất, dẹp loạn Phan Bá Vành và (cùng các quan chức mới) từng bước giúp Minh Mạng giành quyền kiểm soát Bắc thành. Kết quả của quá trình này việc Bắc thành bị xóa bỏ, đổi thành các tỉnh vào năm 1831. Đây là một cuộc cách mạng về tổ chức hệ thống hành chính ở Việt Nam.
- Thứ hai là phụ trách vấn đề an ninh, đánh dẹp các công cuộc nổi dậy ở Bắc Kỳ cuối những năm 1820 đến 1830. Từ đánh dẹp Phan Bán Vành đến Nông Văn Vân và tiễu trừ cướp biển vùng Đông Bắc. Sứ mệnh này đã mang lại cho ông nhiều vinh quang cũng như vị trí vững chắc trong hệ thống quyền lực cảu Minh Mạng.
- Thứ ba là hoạt động sai phái vào hạ lưu Mekong.
Thế nhưng, dù Nguyễn Công Trứ có tài năng thế nào thì cuộc đời ông vẫn luôn gắn liền với chữ "ngông ngạo". Sách Quốc sử di biên viết: “Trứ vốn tính hào phóng, thường đắp phương trượng tam sơn sau công đường, trên núi làm chùa, đào hồ thả sen, bắc cầu trên hồ, nuôi 25 đồng nữ sớm tối cúng Phật....
... Trước kia, Trứ đóng đồn ở Vân Trung, bắt được 3 trai, 7 gái người Thổ nuôi làm gia thuộc, cho hát xướng, ngày đêm cùng tân khách và bè bạn đánh tổ tôm, hút thuốc, nghe truyện Kim Vân Kiều, tự xưng là Lão Trang. Thường ngày, họp nhau uống rượu, làm thơ ca quốc âm, có ý coi rẻ lợi danh. Việc này lọt đến tai Vua, Minh Mạng cười nói rằng: Thói cũ thằng cuồng vẫn hào phóng như thế đấy!”.
Ngoài ra, xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ, các nhà nghiên cứu đều cho rằng: Ngay từ thuở còn hàn vi, Nguyễn Công Trứ đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Vậy nhưng, cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp…
Xem thêm: Nguyễn Công Trứ - vị quan "ngông", 80 tuổi vẫn xin đi tòng quân đánh giặc
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận