Nguyễn Công Trứ - vị quan "ngông", 80 tuổi vẫn xin đi tòng quân đánh giặc
Nguyễn Công Trứ là vị quan ngông nhất trong sử sách Việt Nam. Cái sự ngông của ông đã khiến nhiều kẻ ghen ghét, vu cáo, hãm hại. Thế nhưng, ông lại được lòng dân, khi thác đi ai cũng khóc thương.
Nhân tài kiệt xuất nhưng lận đận đường thi cử
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn. Ông sinh ở huyện lỵ Quỳnh Côi, phủ Thái Bình. Thân phụ là Nguyễn Công Tuấn tước Đức Ngạn Hầu, quê làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tri phủ Tiên Hưng - THái Bình. Thân mẫu của ông là cụ Nguyễn Thị Phan, con gái quan Quản nội thị, tước Cảnh Nhạc Bá dưới triều vua Lê - chúa Trịnh.
Theo một số tài liệu, Nguyễn Công Trứ sống ở Thái Bình đến năm 10 tuổi thì theo gia đình về quê cha ở Hà Tĩnh. Từ bé dù sống trong nghèo khó nhưng ông nổi tiếng thông minh, học giỏi, có tài văn thơ và thể hiện mình là người đầy cá tính.
Ông lớn lên trong những năm cuối của nhà Tây Sơn, đến đầu nhà Nguyễn vẫn lận đận đường thi cử. Sau bao lần "lều chõng" không đạt thành tựu, đến năm 41 tuổi (1819), ông mới đậu Giải nguyên (đỗ đầu kỳ thi Hương).
Năm 1820, Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử quán. Sau đó, ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Đào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc Tử Giám (1824), Phủ Thừa phủ Thừa Thiên (1825), tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ Hình (1826).
Đến năm 1828, ông Nguyễn Công Trứ được thăng Hữu Tham tri Bộ hình, sang chức Dinh điền sứ. Năm 1832, ông được bổ chức Bố chánh sứ Hải Dương. Cùng năm, ông được thăng Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An. Sang đến năm 1840, ông giữ chức Tả Đô Ngự sử viện đô sát, kiêm Tham tri Bộ binh, tán lý cơ vụ đồn trấn Tây.
Năm 1845, ông làm chủ sự Bộ hình. Năm 1846, ông làm quyền sát Quảng Ngãi. Được 2 tháng, ông lại đổi ra làm Phủ Thừa phủ Thừa Thiên. Sang năm 1847, ông được thăng chức làm Phủ doãn phủ Thừa Thiên.
Năm 1847, ở tuổi 70, Nguyễn Công Trứ xin về hưu nhưng vua Thiệu Trị không cho. Đến năm 1848, dưới thời vua Tự Đức, ông mới được về hưu hẳn.
Vị quan trải 4 đời vua, có tài dẹp loạn, đánh đâu thắng đó
Sử chép, Nguyễn Công Trứ làm quan các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nổi danh thanh liêm, tài trí hơn người. Ông làm đến chức thượng thư, tổng đốc nhưng kỳ lạ thay, đường quan lộ lại thăng trầm vô cùng.
Nguyễn Công Trứ nhiều lần được thăng chức nhưng cũng có lần bị giáng liền ba bốn cấp, có khi chỉ trong một năm ông đã thăng giáng chức nhiều lần. Mức phạt nặng nhất là án "trảm giam hậu" (từ hình tạm giam chưa giết vào năm 1841), đuổi đi làm lính vào năm 1843.
Chuyện lạ nữa, dù là quan văn nhưng Nguyễn Công Trứ rất giỏi ổn định trật tự, có tài dẹp loạn, nhiều lần cầm quân ra trận. Mà cứ đánh đâu là thắng đó.
Cụ thể, trong giai đoạn đầu làm quan, Nguyễn Công Trứ có công vì dẹp được các cuộc nổi loạn. Khi làm Tham hiệp trấn Thanh Hoa, ông đã đánh dẹp được cuộc nổi loạn của Lê Duy Lương (1826).
Theo Châu bản triều Nguyễn, năm 1827, trấn Nam Định cấp báo thổ phỉ nổi loạn khắp nơi, Nguyễn Công Trứ được cử cầm binh đi dẹp loạn. Ông bắt được đầu đảng là Phan Bá Vạn, vua mừng lắm liền ban thưởng cho ông.
Đến năm 1835, Nông Văn Văn nổi dậy ở vùng biên giới phía Bắc, gây khó khăn cho quan quân. Nguyễn Công Trứ lại nhận lệnh đi đánh dẹp. Khi ấy, ông vào tận sào huyệt và dẹp yên được cuộc nổi loạn này.
Đến năm 1841, ông tham gia cuộc chiến chống Xiêm La (Thái Lan) khi quân Xiêm tấn công Đại Nam. Với công lao dẹp loạn các nơi, ông được thăng lên làm Thượng thư Bộ Binh, Tổng đốc Hải Yên. Chức Thượng thư bộ Binh nắm quân đội và binh quyền, tương đương với đại tướng quân.
Nhà điền doanh tài ba, nhà thơ nổi bật
Nguyễn Công Trứ còn thể hiện mình là một nhà điền doanh tài ba. Ông đã nhìn ra nhu cầu bức thiết của dân nghèo là cần ruộng đất để cấy trồng. Trong khi đó nhiều nơi ruộng đất mênh mông lại hoang hóa. Ông liền dâng sớ trình bày về việc cần vỡ ruộng hoang.
Đến năm 1828, khi giữ chức Dinh điền sứ, ông đã tổ chức chiêu mộ dân nghèo, quai đê lấn biển, khai hoang lập ấp, kết quả là lập ra 2 huyện Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình).
Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ nổi bật trong nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ 19. Với tài năng và là người của hành động, trải nhiều thăng trầm, ông thấu hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời và đưa những suy ngẫm của mình vào thơ.
Thơ của ông thể hiện khí phách ngang tàng, tài hoa. Thơ của ông xoay quanh các chủ đề như chí nam nhi, cảnh nghèo và thế thái nhân tình hay triết lý hưởng lạc.
Nổi tiếng nhất là "Bài ca ngất ngưởng" - tác phẩm được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT. Bài thơ này thể hiện cuộc đời làm quan đầy thăng trầm của ông, đồng thời cũng cho thấy sự ngất ngưởng, cái ngông cảu bậc dũng tướng. Ông cũng là tác giả của nhiều bài ca trù nổi tiếng, được hậu thế xưng tụng là “ông hoàng hát nói”.
Cuộc đời đầy ắp giai thoại về sự ngông
Cuộc đời của vị quan trải mấy đời vua Nguyễn này luôn đầy ắp giai thoại, mà giai thoại nào cũng có thấy bản lĩnh sống, trí tuệ và tính cách ngang tàng, ngạo nghễ của ông.
Có giai thoại kể rằng, ngay từ khi lọt lòng ông đã tỏ rõ sự ngông bướng bằng cách không chịu mở mắt hay khóc như những đứa trẻ sơ sinh khác dù người nhà đem hết nồi đồng, mâm thau khua gõ liên hồi. Đến khi đám người lớn đã mỏi rã rời, lắc đầu thì cậu mới cất tiếng khóc oang oang.
Trong giai thoại làng Nho có chép một giai thoại khá kỳ lạ, thể hiện tài năng của vị quan này. Cụ thể, vào thời chưa đỗ đạt làm quan, một hôm, Trứ đi chơi gặp trời mưa, bèn vào một nhà bán hàng, nằm trên ổ rơm nhà họ đánh một giấc. Sau đó, đại binh của Lê Văn Duyệt đi qua, ghé vào quán, mọi người thấy thì nép hết chỉ mỗi Trứ vẫn nằm ngủ. Tả quân cưỡi ngựa tới nơi thì Trứ mới thức dậy nhưng trước cảnh ấy ông vẫn bình thản.
Lê Văn Duyệt sai người dẫn Trứ đến và hỏi: "Cớ sao thấy đại quân ta trẩy qua mà cứ nằm đó không chịu đứng dậy cho phải phép?”. Trứ đáp: “Quân của đại tướng là quân nhân nghĩa, đi tới đâu, dân vẫn yên ổn làm ăn, không bị kinh động. Bởi vậy, tiểu sinh vẫn nằm yên không lo ngại gì. Vả lại đi đường mệt, gặp nơi ấm nên ngủ quên, thành ra đắc tội. Xin đại tướng lượng thứ”.
Tả quân biết người này là học trò nên yêu cầu vịnh cảnh nằm ổ rơm đắp chiếu, nếu nghe hay sẽ thay cho. Trứ liền ứng khẩu: "Ba vạn anh hùng đè xuống dưới/Chín lần thiên tử đội lên trên”. Lê Văn Duyệt nghe xong kinh ngạc, thưởng tiền và cho về. Lê Văn Duyệt nể phục tài năng của Trứ và thường nói với các quan trong triều rằng: “Người ấy thực là bậc kỳ tài, lại có chí lớn. Nếu triều đình biết dùng, chắc sẽ thành một bề tôi lương đống mai sau”.
Tuy cuộc đời lắm thăng trầm nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn ngạo nghễ đến khi nhắm mắt xuôi tay. Có giai thoại cho rằng, sau khi cáo lão, được nhà vua cho về quê dưỡng già, ông ở một cạnh ngôi chùa trên núi Cảm Sơn (Đại Nài, Hà Tĩnh), suốt ngày hát xướng, rồi đi ngao du cùng bạn bè.
Khi đã ngoài 70 tuổi, ông gặp 1 cô gái 17 tuổi, hai người đem lòng yêu nhau. Sau đó, ông đã hỏi nàng làm thiếp và nàng đồng sy. Trong đêm hợp hôn, cụ cùng này bày rượu, rồi đập trống hát ca trù và sáng tác một bài hát nói.
Bài hát này ngay lập tức được truyền tụng khắp vùng, trong đó nổi tiếng nhất là hai câu: “Tân nhân nhược vấn lang niên kỷ; Ngũ thập niên tiền nhị thập tam!” Ý nghĩa: “Nếu thiếp mới hỏi chàng bao tuổi? Và chàng trả lời rằng: “Năm mươi năm trước hai mươi ba!”.
Khi có người vợ trẻ, Nguyễn Công Trứ nhớ dân làng giúp đỡ dựng một ngôi nhà lá nhỏ cạnh chùa Cảnh Sơn. Thường ngày, cụ vẫn cưỡi bò vàng cùng cô vợ trẻ đi ngao du, ca hát khắp vùng. Có lần cụ gọi cả gánh ca trù đến hát ngay giữa sân chùa, vị sư trụ trì tại đây thấy vậy sợ quá, bèn tìm đến cầu cứu quan Bố chính Hà Tĩnh.
Vị quan Bố Chính đã đích thân đến xem nhưng từ xa nghe lời ca tiếng đàn, người này cũng say sưa với thơ hay, giọng hát ngọt ngào. Quan Bố chính nói với nhà sư trụ trì rằng lúc này tốt nhất là đừng can thiệp vào thú vui của cụ nữa, bởi có muốn ngăn cản cũng không được. Thậm chí sau đó quan Bố chính đã làm tặng cụ Nguyễn Công Trứ đôi câu đối với đại ý, kẻ làm nên sự nghiệp khiến người đời khiếp sợ trong thiên hạ vẫn còn, chứ người đến già vẫn phong lưu như cụ thì thế gian không có.
Mang tinh thần hành động của một kẻ sĩ chân chính, một đời vì dân vì nước, năm 1858, khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công vào Đà Nẵng, mặc dù đã 80 tuổi, Nguyễn Công Trứ vẫn dâng sớ xin Tự Đức lên đường ra mặt trận Đà Nẵng. Nhưng thấy ông tuổi già sức yếu, vua đã không chuẩn y.
Xem thêm: Tính cách của Lê Văn Duyệt dưới góc nhìn của sử gia Hàn Quốc: Nóng tính, mê... chọi gà, nuôi chó
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận