"Cội nguồn văn hóa" - Bài NLXH đáng suy ngẫm
Những giá trị của cội nguồn văn hoá vẫn đang tiến từng bước trên đà mai một và phôi pha… Vậy ta có thể làm gì hôm nay?
ĐỀ BÀI:
Trong chuyên mục Tọa đàm “Tự hào cùng Việt Nam” của báo Tuổi Trẻ, nhà hoạt động giáo dục Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ:
“Thế giới càng toàn cầu hoá, con người càng có nhu cầu khẳng định và bám vào cội nguồn văn hoá và ngôn ngữ, bản sắc dân tộc và cộng đồng.”
(Tôn Nữ Thị Ninh, Tư duy và chia sẻ, NXB Trẻ, 2016, tr. 127)
Anh/chị hãy bày tỏ quan điểm về ý kiến trên.
BÀI VIẾT:
“Tết đã gần tôi gọi bánh chưng ơi
Để gọi lại những xuân xa thuở trước
Nơi cuối năm khắp chiều dài đất nước
Ngõ phố nào cũng thấy lá dong xanh.”
(Bánh chưng ơi - Thuỵ Anh)
Vẫn hoài thường trực ở đó, một tiếng gọi vọng về cội nguồn văn hoá và bản sắc dân tộc của người trẻ giữa thời đại của “thế giới san phẳng” hôm nay. Toàn cầu hoá thế giới mở ra muôn vàn ngả đường đến bảo tàng văn hoá nhân loại, nhưng dường như càng hội nhập, càng giao lưu bao nhiêu, con người ta lại càng khao khát được “trở về” bấy nhiêu. Đi thật xa để trở về, trở về với mạch nguồn truyền thống ngàn đời của dân tộc. Đúng như nhà hoạt động giáo dục Tôn Nữ Thị Ninh từng chia sẻ trong chuyên mục tọa đàm “Tự hào cùng Việt Nam”: “Thế giới càng toàn cầu hoá, con người càng có nhu cầu khẳng định và bám vào cội nguồn văn hoá và ngôn ngữ, bản sắc dân tộc và cộng đồng.”
“Thế giới toàn cầu hoá”, một thời đại ghi nhận quá trình chuyển hoá và ảnh hưởng trên đa dạng lĩnh vực ở quy mô toàn cầu, đã mở ra một kỉ nguyên mới trên tiến trình kết nối, giao lưu và hội nhập quốc tế. Việt Nam chúng ta đã và đang từng bước tiến gần hơn đến “vòng tay” của bạn bè quốc tế với những dấu mốc ngoại giao ấn tượng được xác lập: bình thường hóa quan hệ với Mỹ (1995), gia nhập hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN (1995), và trong những năm gần đây, nước ta được tín nhiệm trở thành chủ tịch ASEAN (2020), hay năm 2022 chính thức trở thành thành viên của hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc… Trong hành trình hội nhập và mở rộng quan hệ quốc tế ấy, đúng như Tôn Nữ Thị Ninh tỏ bày: “con người càng có nhu cầu khẳng định và bám vào cội nguồn văn hoá” như một sự hướng về những giá trị vật chất và tinh thần làm nên bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc. “Bản sắc dân tộc” có lẽ là vốn liếng, là nét riêng trong đặc điểm văn hoá, phân biệt nước ta với nước khác mà nhờ đó chúng ta có hành trang để hội nhập. Lời chia sẻ được bộc bạch qua cấu trúc câu “càng…càng” đã góp phần nhấn mạnh ý nghĩa và vai trò quan trọng của cội nguồn văn hoá, bản sắc dân tộc trong thời đại toàn cầu hoá hôm nay. Bà Tôn Nữ Thị Ninh quả thực đã khơi dậy trong ta niềm “tự hào cùng Việt Nam”!
Nguồn cơn của làn sóng toàn cầu hoá trước hết đã đem đến những cơ hội góp phần đẩy mạnh xu thế giao lưu văn hoá và giao thoa bản sắc giữa các dân tộc. Cũng chính lúc ấy, “nhu cầu khẳng định và bám vào cội nguồn văn hoá và ngôn ngữ” nơi mỗi con người càng được phát huy. Bởi lẽ bản sắc văn hoá chính là vốn liếng, đồng thời cũng là dung mạo riêng của mỗi dân tộc, góp phần phục vụ cho công cuộc quảng bá và nhân rộng văn hoá giữa các quốc gia. Ta lấy cái riêng để hòa nhập với cái chung, cũng như lấy cái bản sắc quê hương để góp vào bức tranh muôn màu muôn vẻ của văn hoá thế giới. “Thế giới càng toàn cầu hoá” càng mở ra đa dạng các mặt trận để mỗi quốc gia khẳng định chân dung văn hoá của mình, đồng thời tiếp thu và giao lưu với văn hoá nhân loại. Như làn sóng Hallyu của văn hoá Hàn Quốc được hình thành từ đầu những thập niên 90, đã và đang khuấy đảo mọi lĩnh vực tử điện ảnh đến âm nhạc nhằm phục vụ cho mục đích truyền bá văn hóa, lan tỏa giá trị truyền thống của dân tộc. Toàn cầu hóa đã góp phần thúc đẩy một cách tự nhiên “cội nguồn văn hóa và ngôn ngữ” của “xứ sở kim chi”. Và như thế, Hàn Quốc đã phủ sóng bản sắc của mình lên mọi ngõ ngách toàn cầu như một minh chứng khẳng định cho vai trò và sự cần thiết của “nhu cầu bám vào cội nguồn văn hóa và ngôn ngữ, bản sắc dân tộc và cộng đồng”.
Tuy nhiên, song song với cơ hội, thời đại toàn cầu hóa cũng đặt ra những thách thức nhất định với mỗi quốc gia. Trong đó điển hình là nguy cơ vong bản (đánh mất bản sắc). Đơn cử như trường hợp của tiếng Việt - tiếng nói của dân tộc bị xâm phạm và biến chất một cách không khoan nhượng trên khắp các diễn đàn truyền thông lẫn xã hội. Một số bạn trẻ vô tư hưởng ứng trào lưu teencode làm tha hoá và biến chất ngôn ngữ dân tộc. Hay như những biển hiệu “nửa Tây, nửa ta” khắp các góc phố lai căng tùy tiện, thiếu chuẩn mực, vô cùng phản cảm và ô hợp từng được đài truyền hình VTV cảnh báo. Thiết nghĩ giữa làn sóng toàn cầu hoá, nếu không có ý thức “bám vào cội nguồn văn hoá và ngôn ngữ”, thì có phải một ngày, ngay cả tiếng nói - một yếu tố cốt lõi thuộc về căn tính dân tộc cũng bị đồng hoá hay không?
Cũng từ đó có thể khẳng định “cội nguồn văn hoá”, “bản sắc dân tộc” khi ấy chính là trụ cột giữ cho dung mạo của mỗi quốc gia được vẹn nguyên, lành vững. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói ở “Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021”: “Văn hoá là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hoá còn thì dân tộc còn”. Đứng trước làn sóng hội nhập như vũ bão, “con người càng có nhu cầu được bám vào cội nguồn văn hoá” như phương thức giữ cho mình một cốt cách, một phẩm hạnh tốt đẹp tự ngàn đời của dân tộc. Và như nhà thơ Xuân Diệu từng tỏ bày: “không đứng vào dân tộc như cây không đứng vào đất, làm gì có sức chắc chắn để phát triển cho đến tận cùng”. “Bám vào cội nguồn” cho ta một điểm tựa để hoà nhập nhưng không hoà tan, để vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại nhưng đồng thời cũng vừa đi dưỡng và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tôi nhớ đến niềm trăn trở của một lãnh đạo quốc gia: “Mở cửa là có gió mát, nhưng ruồi muỗi cũng bay vào”, và tôi tin “bản sắc dân tộc” chính là thước đo minh xác nhất cho mọi sự lĩnh hội tinh hoa văn hoá đa phương. Để từ đó, dẫu toàn cầu hoá, dẫu hội nhập - chúng ta vẫn giữ lại nơi cốt cách dân tộc mình những giá trị bản nguyên.
Và có lẽ vì vậy mà ý thức “bám vào cội nguồn văn hoá và ngôn ngữ” muôn đời vẫn thường trực như một tôn chỉ sáng tạo tiên quyết của những văn nhân trên mặt trận văn hoá nghệ thuật. Giữa thời buổi hội nhập toàn cầu, mới đáng trân trọng thay cho những nỗ lực níu giữ “cội nguồn văn hoá” của những người nghệ sĩ ôm niềm thao thức bảo lưu và gìn giữ cho sự trong sáng của tiếng Việt. Đó là nữ “nhà văn xóm rẫy” Nguyễn Ngọc Tư với những tác phẩm dày đặc phương ngữ Nam Bộ. Đó là một thi sĩ Lê Đạt với “thơ dòng chữ” khẳng định khát vọng cách tân, làm mới và sáng tạo các khả thể biểu đạt của tiếng Việt. Và đó là một Lưu Quang Vũ với niềm tha thiết khôn nguôi về vẻ đẹp của tiếng nói quê hương: “Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển/Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya”. Chính những người họ đã cho tôi thấy rằng “khẳng định và bám vào cội nguồn văn hoá và ngôn ngữ” không chỉ giản đơn là một “nhu cầu” nữa, mà hơn cả, đó là lẽ sống, là nghĩa vụ, là trách nhiệm của mỗi công dân với Tổ quốc trong thời buổi hôm nay.
Cũng từ đây, tôi nhớ đến các bạn trẻ Việt Nam, thế hệ của chúng tôi. Tôi nghĩ rằng, nếu chỉ khư khư “khẳng định và bám vào cội nguồn văn hoá” sẽ là biểu hiện của tinh thần thủ cựu, bảo thủ. Ngược lại, nếu chỉ háo hức tiếp thu cái mới, cái lạ của văn hoá nhân loại, rất dễ dẫn đến nguy cơ bị pha tạp, đánh mất bản sắc và đẩy mình vào thách thức “vong bản”. Toàn cầu hoá tạo cơ hội cho con người vươn xa trở thành những công dân toàn cầu, nhưng dẫu có ở đâu, sống và phát triển như thế nào, ta vẫn sẽ mạnh mẽ và đủ đầy nếu giữ vững cốt cách, linh hồn của dân tộc. Để từ đó hiểu rằng “đứng vào dân tộc” (Xuân Diệu), hay “bám vào cội nguồn” không đồng nghĩa với việc chỉ biết “cột chặt” đời mình nơi hình hài Tổ quốc, mà gắn với bối cảnh toàn cầu hoá, đó là khát vọng đem hơi thở, quốc hồn, quốc tuý của đất nước vươn xa đến tận năm châu. Hãy bay xa đến khắp phương trời với “Việt Nam trong mỗi linh hồn” (Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Do vậy trước những cơ hội xen lẫn thách thức, chúng ta cần có tinh thần cởi mở, giao thoa văn hoá nhân loại nhưng đồng thời cũng phải có ý thức giữ gìn “cho cội nguồn văn hoá và ngôn ngữ, bản sắc dân tộc và cộng đồng” được vẹn nguyên, lành vững. Đó là một quá trình dài đòi hỏi nỗ lực song song, mọi sự tuyệt đối hoá đều là khập khiễng.
Và lời thơ của Thuỵ Anh vẫn da diết như lời vẫy gọi gửi về quá vãng:
“Bánh chưng ơi – Tôi gọi lời tha thiết
Xa tự bao giờ mà xa thế, bánh chưng ơi!”
(Bánh chưng ơi - Thuỵ Anh)
Những giá trị của cội nguồn văn hoá vẫn đang tiến từng bước trên đà mai một và phôi pha… Vậy ta có thể làm gì hôm nay?
(Nguồn: Nguyễn Quốc Anh, học sinh lớp 12 Văn - Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh, Đồng Nai, Niên khóa 2020 - 2023)
Xem thêm: Giá trị của bạn nằm trong tay bạn - Bài văn nghị luận xã hội hay
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận