20 ngộ nhận, hiểu lầm không đúng về đạo Phật mà nhiều người vẫn lầm tưởng
Do nhiều người khi tu tập không trang bị đủ kiến thức, triết lý của giáo pháp như thực - tức giáo pháp cội rễ của đạo Phật mà dẫn đến những ngộ nhận, hiểu lầm không đúng.
Đạo Phật hiện có nhiều tông phái, thu hút nhiều Phật tử, cư sĩ tu tập, tu hành. Tuy nhiên, đôi khi do trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức, triết lý, thuyết giáo của giáo pháp như thực - tức giáo pháp cội rễ của đạo Phật mà dẫn đến nhiều ngộ nhận, hiểu lầm không đúng. Từ đó lại sinh ra chuyện là khó phân biệt đâu là đạo Phật chân chính, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, có nơi còn trộn lẫn Phật giáo với duy linh và cả tín ngưỡng dân gian. Bởi vậy, Hòa Thượng Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) đã chỉ ra những hiểu lầm tai hại và khá phổ biến về đạo Phật để chư vị thức giả và các cư sĩ có thể phân biệt.
Tôn giáo
Theo Hòa Thượng Giới Đức, đạo Phật tuy có những sinh hoạt về tôn giáo, nhưng lại không phải là tôn giáo. Điều này xảy ra do trong thế giới quan của Phật giáo không xuất hiện hay tồn tại một Đấng tạo hóa tối cao hóa sinh muôn loài, có quyền ban thưởng, phạt ác chúng sinh. Đạo Phật tuân theo quy luật sinh tử luân hồi, do tác động của nghiệp lực mà khi tái sinh chúng sinh sẽ được vào một trong các cõi thuộc lục đạo luân hồi (tức sáu cõi luân hồi).
Tín ngưỡng
Tương tự, đạo Phật tuy có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đây không phải là tín ngưỡng. Đạo Phật không phải là tín ngưỡng mà chúng sinh đến van vái, cầu xin những ước mơ trần tục, dung dị đời thường.
Triết học
Theo quan niệm phương Tây, đạo Phật là một bộ môn triết học, được "chia chẻ" ra thành nhiều phần, rồi "phán đoán" sự vật hiện tượng. Trên thực tế, đạo Phật hoàn toàn không phải là một nhánh Triết học, nhưng vẫn sở hữu một hệ thống tư tưởng, được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là "như thực, như thị thuyết".
Triết luận
Đạo Phật có tuệ giác là để thấy rõ Cái Thực, chứ không dựa trên lý trí phân tích, lý luận. Đạo Phật là đạo "như chân, như thực". Trong kinh giáo của Đức Phật, mọi thứ đều đi từ cái thực tế, cụ thể để có thể hướng dẫn chúng sinh tu tập, không tồn tại triết hay luận.
Từ thiện
Nhiều cư sĩ theo đạo Phật thường có những sinh hoạt từ thiện xã hội, nhưng theo Phật giáo nguyên thủy thì từ thiện không phải là tất cả. Đạo Phật còn có nhiều sinh hoạt cao cả hơn, đó là giáo dục, là văn hóa, là nghệ thuật, là thu tập, thiền định và cả thiền tuệ.
Trên thực tế, từ thiện xã hội là việc mà ai cũng có thể làm, thậm chí có những cá nhân, tập thể làm tốt hơn cả những đệ tử nhà Phật. Giáo dục, văn hóa, nghệ thuật trong Phật giáo dựa trên nền tảng Mỹ học (là nội hàm các giá trị nhân văn( mà không tồn tại một tôn giáo, một chủ nghĩa, một học thuyết nào khác có thể so sánh được. Đó mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật với thế gian, với chúng sinh. Nếu không có tu tập thiền định, thiền tuệ thì những hình thái sinh hoạt của đạo Phật có lẽ lại không phải của đạo Phật.
Cực lạc
Trong các kinh điển Phật giáo, quả thực có nhắc, có nói tới hỷ, lạc trong các tầng thiền. Thế nhưng điều này ám chỉ hạnh phúc siêu thế khi thoát khỏi tham sân si, khổ lạc (dukkha), những khổ đau, phiền não của thế gian, rời bỏ cõi sinh tử luân hồi. Không nên hiểu rằng trong đạo Phật có tồn tại một chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như một số người lầm tưởng.
Tám vạn bốn ngàn pháp môn
Tám vạn bốn ngàn pháp môn (dhammadvāra) là một trong những khái niệm bị hiểu sai, bởi điều đạo Phật nhắc tới là tám vạn bốn ngàn pháp uẩn (dhammakhandha). Uẩn (khandha) có ý nghĩa là che lấp, che mờ, ngoài ra còn hàm ý là chồng lên, chồng chất, là liên kết, tập hợp như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do sai sót trong dịch thuật nên từ uẩn (khandha) bị dịch lệch ra môn (tức cửa: dvāra) nên nhiều người nghĩ rằng có tám vạn bốn ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng khả thi. Cần lưu ý, "tám vạn bốn ngàn" là con số tượng trưng, hàm ý là rất nhiều, đếm không kể xiết dựa theo truyền thống tôn giáo cũng như tín ngưỡng Ấn Độ thời cổ đại.
Xin xăm, bói quẻ, xem ngày lành tháng tốt
Cần lưu ý rằng, những hình thức như xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày lành tháng tốt,... không thuộc giáo pháp như thực của đạo Phật. Trong kinh tụng Pàli có đoạn rằng: "Sunakkhatam sumangalam supabhātam suhutthitam, sukhno ca suyittam brahmacārisu. Padakkhinam kāyakammam vācākammam padakkhinampadakkhinam manokammam panidhī te padakkhinā…". Thực chất, đoạn này có nghĩa là: "Giờ nào ta thực hành thân, khẩu, ý trong sạch thì giờ đó được coi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, khắc tốt, là canh tốt."
Ngày này gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt, theo đó dẫn tới nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như vậy sẽ nhận được những lợi ích phát đạt (phát đạt có thể thêm nghĩa là nhiêu ích).
Định mệnh
Đây là một trong những điều dễ bị hiểu sai, bởi đạo Phật có nhắc tới nghiệp, tới nhân quả, nghiệp báo chứ không phải là định mệnh. Cụ thể, một người gây nhân xấu ác thì sẽ gặt quả đau khổ, còn một người gây nhân lành tốt thì sẽ gặt quả an vui. Cần phân biệt nhân quả, nghiệp báo với định mệnh như câu "cái tơ cái tóc cũng do trời định" được nêu tại định mệnh thuyết của Khổng Nho hay định mệnh 4 giai cấp của Bà La Môn giáo.
Siêu thoát, siêu độ
Trong nhà Phật, không tồn tại bài kinh nào, cũng không có uy lực của bất kỳ sư, thầy nào có thể tụng Kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Khi Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất thì chư tăng cũng chỉ đọc nhưng bài kệ vô thường, vô ngã và khổ để thức tỉnh người sống. Cũng có thể tồn tại 2 trường hợp là:
Một người chết lâm sàng thì khi đó thần thức vẫn còn. Khi đó các sư, thầy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, thắp hương trầm,... để "thần thức" người chết hướng về điều lành, tự tạo "cận tử nghiệp" tốt cho mình.
Một người đã chết và thần thức lìa khỏi thân thể, thì khi đó họ có thể đã tái sinh vào cõi khác rồi. Khi đó, gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã khuất.
Cần lưu ý, cả hai trường hợp trên đều không mang hàm ý siêu thoát, siêu độ, mà có nghĩa là gia hộ, gia lực mà thôi. Tức là sau cùng dù là tu tập cũng phải dựa vào tha lực, tự lực mình mà đi. Chư Thiên chỉ có thể hoan hỷ phước, gia hộ và báo tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ có uy lực ban phước lành, phước báo nhưng những điều ấy đều phải nằm trong nhân-quả.
Huyền bí, bí ẩn
Giáo pháp của đạo Phật không tồn tại những gì gọi là huyền bí, bí mật, bí ẩn cả. Đức Phật đã từng dạy rằng: "Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra". Câu này hàm ý rằng Ngài không có một pháp nào bí mật, huyền bí để giấu kín cả.
Tâm linh
Hiện này, nhiều nơi xuất hiện những điện thờ với hình thức mê tín, dị đoan nhưng lại nói rằng đó là các giá trị tâm linh. Đạo Phật không tồn tại những kiểu tâm linh như vậy, trong các kinh điển Phật giáo như Kinh Pāḷi hay Sanskrit có từ nào tương thích với "tâm linh".
Niết bàn
Không ít người hiểu rằng Niết bàn là một cõi nào đó, một chốn nào đó hay một thế giới nào đó hiện hữu. Đó không phải là Niết Bàn. Ngài Huệ Năng đã có câu: "Phật pháp tại thế gian. Bất lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ đề. Cáp như tầm thố giác". Giác ngộ cũng giống vậy, chính ở trong đau khổ, phiền não mới có thể giác ngộ được.
Niết bàn (sa. nirvāṇa) mang nghĩa là "thổi tắt", "dập tắt" một "ngọn lửa", cũng mang nghĩa là Khổ diệt, Diệt tận, Diệt độ... Niết bàn có thể hiểu là mục đích tu hành cứu cánh của Phật giáo, được coi là đoạn triệt sinh tử Luân hồi. Tức là khi tới Niết bàn thì ngọn lửa tham - sân - si trong tâm chúng sinh đã bị dập tắt, không còn đau khổ, phiền não, tâm trở nên trong sáng, thanh tịnh, biết rõ tất cả pháp là vô thường, vô ngã và khổ.
Tìm lạc
Tu tập theo đạo Phật không phải là bỏ đi mọi khổ đau, đi tìm an lạc (vui). Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não
Đạt được điều gì đó
Có người cho rằng, tu là để đạt được một cái gì đó. Đạt được gì đó là sở đắc, chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã, do vậy không phải tu để đạt được điều gì đó mong muốn.
Tu là sửa
Cũng có một số người cho rằng, tu là sửa, tức là biến "cái ta này" thành một "cái ta khác", như vậy mới không còn tham - sân - si. Thực tế, sửa hay không sửa đều không đúng cũng không sai, bởi đạo Phật quan trọng là Cái Thấy Trí Tuệ, như vậy mới nói đến giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, đến Niết bàn.
Vía
Cần lưu ý, vía, hồn hay phách là quan niệm của dân gian, còn đạo Phật thì không nhắc và không nói tới khái niệm "vía". Vía là phần hồn, không có nó thì linh hồn tự tồn tại sẽ không có nơi nương gá, không tồn tại độc lập được. Chỉ có thiền định mới tạm thời tách lìa danh (tâm) ra khó sắc (thân), tựa Cõi trời Vô tưởng trong tứ thiền. Cõi trời Vô tưởng hữu tình này tồn tại ở rdanjg tiềm miên.
Bồ Tát
Bồ Tát (Bodhisatta) tức là Chúng sinh có Trí tuệ, có đôi phần khác biệt với kinh điển. Cũng vì vậy mà có 3 loại chúng sinh có trí tuệ, là hạng chúng sinh trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn, là chúng sinh trí tuệ với nguyện lực Độc Giác và chúng sinh trí tuệ với nguyện lực Chính Đẳng Giác.
Phật
Phật (Buddha) có nghĩa là người Giác ngộ. Như vậy, tạm bỏ quên khái niệm "Phật" trong tâm thức, trở về nghĩa gốc trong giáo pháp như thực là bậc Giác ngộ. Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ là Thanh Văn Giác - người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chính Đẳng Giác, Độc Giác - người Giác ngộ do tự mình tu tập khi không có đức Chính Đẳng Giác và Chính Đẳng Giác - vị Giác ngộ trọn vẹn 30 Ba la mật, trọn vẹn minh và hạnh.
Thể nhập
Tu không phải là nhập vào một thứ gì, thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cụm từ "thể nhập pháp giới" rất dễ bị hiểu sai, chỉ khi mà khi đi, chính niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái Đi; khi nói, chính niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái Nói; khi ăn, chính niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái Ăn thì mới đúng là "thể nhập pháp giới". Ngay tại thời điểm đó, những tham sân si, phiền não không còn nữa, không còn có thể sinh khởi được.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận