Thấm thía 4 câu chuyện về tâm đại bi vô lượng của Đức Phật trước khi Niết Bàn
Trước khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn, Ngài đã để lại cho chúng đệ tử và hậu thế những câu chuyện thấm thía về tâm đại bi vô lượng.
Ngày rằm tháng 2 hơn 2.500 về trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - Đấng Cha Lành đã nhập Niết Bàn. Giờ đây, ta chỉ còn thấy hình bóng cũng như tư tưởng Ngài qua những giáo pháp còn được lưu truyền. Dưới đây là 4 câu chuyện về tâm đại bi vô lượng của Đức Phật trước khi Niết Bàn:
Đức Phật thọ nhận nấm độc
Cunda (Thuần Đà) vốn là một người thợ rèn làm sắt, rất có lòng tôn kính với Đức Phật. Khi biết Ngài và Tăng đoàn tới Câu Thi Na, ông đã thỉnh gặp và xin được cúng dường chongafi. Không chỉ vậy, ông còn chuẩn bị chu đáo những món ăn thượng vị, trong đó có một nồi cháo nấm thơm ngon với sữa.
Đức Phật nhận bát cháo của ông Cunda rồi nói rằng, món này chỉ được dành riêng cho Ngài, không được cho ai khác, phần còn lại phải đem đi chôn. Ngài biết rõ, một ai ở nơi cõi Trời, cõi Người, Ma giới, ở Phạm thiên giới; không một ai trong chúng Sa Môn, Bà La Môn hoặc bất kỳ ai khác, ăn món ăn này mà có thể tiêu hóa được, trừ Ngài.
Không lâu sau khi thọ thực món ăn ấy, Đức Phật lâm bệnh nặng, chịu nhiều đau đớn.Thế nhưng, Đức Thế Tôn vẫn chính niệm, tỉnh giác, nhẫn nại, điều phục, chịu đựng đau bệnh. Đó là vì, Ngài biết rõ món cháo ấy chính là nhân duyên để Ngài có thể nhập Niết Bàn.
Ngài dặn tôn giả A Nan rằng, nếu ai thắc mắc phải chăng "có vấn đề", hãy nói: "Bữa ăn của nàng Sujàtà dâng Như Lai trước khi thành tựu đạo quả, và bữa ăn của Cunda dâng cúng trước khi Như Lai Niết Bàn; cả hai bữa ăn ấy đem lại phước báu bằng nhau, tạo quả bằng nhau; và quý báu, cao thượng hơn tất cả sự cúng dường khác.
Nghiệp tốt của hai bữa ăn ấy sẽ trổ quả hạnh phúc nhiều đời, tuổi thọ cao, tài sản, danh vọng đều thịnh mãn, thường hưởng được phước báu cảnh trời hoặc cảnh vua chúa quyền quý cao sang!". Ngài biết chúng sinh thời mạt pháp dễ có quan điểm sai lầm, nên đã căn dặn như vậy vừa "giải oan" cho Cunda, vừa giải nghi cho tứ chúng.
Thời bấy giờ, nhiều người cho rằng người tu mắc bệnh sẽ không thể đắc đạo; người tu đã đắc đạo thì sẽ không mắc bệnh trước khi xả bỏ báo thân. Và bữa cơm cuối cùng này cũng là nhân duyên Ngài thị hiện thân bệnh, giúp chúng sinh hiểu rằng người bị bệnh không phải là không đắc đạo và người đắc đạo không phải là không bị thân bệnh.
Tôn giả A Nan với bát nước sông đục
Rời nhà Cunda, Đức Phật đi tới Kusinara. Cảm thấy mệt, Ngài nhờ tôn giả A Nan trải y, rồi lấy nước ở dòng soong vừa có 500 cỗ xe ngựa chạy qua. A Nan thấy nước sông đã cạn, lại vẩn đục, liền nói với Đức Phật rằng sẽ đi tới dòng sông khác để lấy nước sông ở nơi khác sạch hơn.
Thế nhưng, Đức Thế Tôn vẫn nói tôn giả A Nan đi lấy nước ở con sông đó. Trở lại dòng sông, A Nan vô cùng ngạc nhiên mà nói: "Thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay thần túc và uy lực của Như Lai. Con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục này, khi ta đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục".
Từ đó, có thể hiểu Đức Phật thị duyên này để khẳng định rằng: Người tu hành đắc đạo dù có mắc bạo bệnh thì năng lực công đức không hề tổn giảm, năng lực của tâm không bị ảnh hưởng.
Đức Phật tinh tấn độ sinh tới giây cuối cùng
Mọi điều Đức Phật làm đều vô cùng mẫu mực, tuyệt hảo, dành cả đời vì sự an lạc và hạnh phúc của chúng sinh. Trong suốt 49 năm hóa độ, mỗi Đức Thế Tôn đều đặn chia công việc cho 5 thời: một thời buổi sáng, một thời buổi trưa, đến canh đầu của buổi tối, canh giữa và canh cuối của đêm.
Vào buổi sáng, Ngài sẽ dùng thiên nhãn quan sát, tìm xem ai trên thế gian có đủ duyên để Ngài đến tế độ. Nếu cần thiết, Ngài sẽ đích thân đi bộ đến. Chẳng hạn như Angulimala từ một tên tướng cướp khét tiếng trở nên thành người lương thiện và xuất gia, sau này trở thành một vị Thánh Tăng A La Hán.
Sau đó, Ngài sẽ đi khất thực, rồi thọ trai tùy duyên. Giữa trưa, Đức Phật sẽ nằm chỉ tịnh một chút, rồi lại dành thời gian giáo dưỡng các vị Tỳ-kheo từ xa đến gặp. Từ khoảng 3h - 6h chiều, Ngài sẽ giải đáp thắc mắc, nghi vấn cho tất cả những ai có mong muốn gặp và thỉnh Ngài chỉ dạy.
Canh đầu buổi tối từ 18 giờ đến 22 giờ, Đức Phật dành riêng cho những vị Tỳ-kheo ở gần trú xứ với Ngài. Canh giữa từ 22 giờ đến 1 - 2 giờ khuya là thời gian Ngài dành cho các vị chư thiên: Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, các chúng ở trong các cõi trời xuống xin thỉnh thỉnh Ngài chỉ dạy.
Canh cuối khoảng từ 2-5 giờ sáng, Đức Phật trước tiên sẽ đi kinh hành. Sau đó, Ngài nằm nghỉ xả, định thần đôi chút rồi lại nhập đại bi định và rải tâm từ đến khắp nơi, làm êm dịu tâm trí chúng sinh. Mỗi ngày, cứ đều đặn như thế, dành cả cuộc đời để tế độ chúng sinh, không bỏ lỡ một giây phút nào.
Đức Phật để lại lời di giáo cho tứ chúng đệ tử
Tương truyền, Đức Thế Tôn nằm nghiêng lưng trên tảng đá bằng phẳng ,đầu quay phía Bắc, mặt quay hướng Tây. Ngài nằm giữa khu rừng mát mẻ, với hai cây Sa La song thọ với bốn nhánh vươn cao, hoa nở thơm ngào ngạt, chư Tỳ-kheo ngồi vòng quanh yên lặng.
Trong không gian tĩnh lặng, Đức Phật đã thuyết kinh Di giáo - những lời dạy cuối cùng để lại cho hai hàng đệ tử xuất gia và tại gia. Trong đó, có điều Ngài căn dặn thể hiện tâm đại bi vô lượng rằng:
- "Này Ananda, nếu trong các ông có người nghĩ rằng: 'Lời nói của bậc Đạo sư không còn nữa'. 'Chúng ta không có Đạo sư (giáo chủ)'. Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo sư của các ông".
- "Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nào nghi ngờ hay phân vân gì về đức Phật, đức Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp; thời, này các Tỷ-kheo, các ngươi hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc: Bậc Đạo Sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt hỏi Đức Thế Tôn”. Đức Thế Tôn lặp lại điều ấy, lần thứ 2, lần thứ 3 và Tăng chúng vẫn giữ im lặng. Ngài biết rằng, trong chúng Tỳ-kheo, không có một ai nghi ngờ hay phân vân gì đối với đức Phật, đức Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp".
Rồi Ngài nói với các Tỳ-kheo lời sau cùng:
- "Này các Tỳ-kheo, nay Ta khuyên dạy các ông: 'Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật'".
Đó là lời cuối cùng của Đức Như Lai, rồi Ngài nhập các tầng thiền và diệt độ. Những lời Phật dạy tựa như lời nhắn nhủ của người Cha thương con trước khi nhắm mắt xuôi tay. Ngài luôn tinh tấn không giảm, chí nguyện độ sinh, hết lòng từ bi yêu thương chúng sinh tới hơi thở cuối cùng.
Lòng từ bi của Ngài là lòng từ bi vô hạn, không phân biệt đẳng cấp, giai cấp. Ngài thấy tất cả chúng sinh đều là khổ, đều đang chìm đắm trong bể khổ và Ngài thấy bổn phận của Ngài là phải cứu vớt tất cả chúng sinh, dù là ai đi nữa thì họ cũng cần phải được cứu độ, đúng với bản hoài của Ngài đó là Ngài ra đời để cứu độ tất cả chúng sinh.
Tổng hợp
Xem thêm: 5 biểu hiện mà người là con của Phật thường có, được quý nhân phù trợ
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận