Tại sao trong tên của con gái có lót chữ “Thị”, con trai có lót chữ “Văn” ?

Theo phong tục của người Việt xưa, trong tên con trai thường lót chữ Văn, con gái lót chữ Thị. Vậy tục lệ này xuất phát từ đâu?

Tại sao trong tên của con gái có lót chữ “Thị”, con trai có lót chữ “Văn” ?

Theo phong tục của người Việt xưa, trong tên con trai thường lót chữ Văn, con gái lót chữ Thị. Vậy tục lệ này xuất phát từ đâu?

Tại sao trong tên của con gái có lót chữ “Thị”, con trai có lót chữ “Văn” ?

Lý do trong tên con gái có chữ "Thị"

Nhắc tới “thị” xin mọi người quay ngược thời gian, trở về cái thời hồng hoang, ăn lông ở lỗ của bộ lạc và thị tộc. Xã hội khi đó rất lạc hậu nên việc sinh đẻ rất khó nuôi và người đàn bà tất nhiên trở thành một vai trò rất quan trọng. Vì vậy, thị tộc mẫu hệ ra đời và là hình thức thị tộc đầu tiên phổ biến của xã hội loài người. Trong đó, người phụ nữ có vai trò lớn, đứng đầu gia đình và các thị tộc.

Thị tộc phụ hệ là giai đoạn kế tiếp thị tộc mẫu hệ, ra đời từ thời kỳ đồ đá.

Dân tộc Việt ta có Hồng Bàng Thị (鴻龐氏) dịch ra là họ Hồng Bàng, nhưng ý nghĩa ban đầu là “người mẹ Hồng Bàng”.

Bên Trung Quốc có, như: “Phục Hy thị” 伏羲氏, “Thần Nông thị” 神農氏, “Cát Thiên thị” 葛天氏, “Hữu Hỗ thị” 有扈氏 cũng là kiểu này.

Thị là một danh xưng mặc định cho người đàn bà. Cả Trung Quốc lẫn Việt đều chỉ đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít chỉ phụ nữ là”y thị”.

Thành ra có những cách gọi, xưng hô đàn bà như bà Trần Thị, Nguyễn Thị, Lý Thị, Vương Thị,..

Việt tộc chúng ta là một tộc khá cá biệt của thế giới văn minh, chúng ta trường tồn là có một phần “mẫu hệ” và theo chế độ mẫu hệ dài hơn người Trung Quốc. Cũng nhờ mẫu hệ này mà suốt cả nghìn năm bị Trung Quốc đô hộ ta không mất gốc.

Cái chế độ mẫu hệ ở Việt Nam ta từ hồi Bà Trưng, Bà Triệu và tới nay đã là phụ hệ khi con mang họ cha. Tuy nhiên con mang họ cha là lý thuyết thôi, trong gia đình quyền lực của các bà vẫn bao trùm.

Ông bà ta có câu : ”Mua heo chọn nái mua gái chọn dòng” là vì thế.

Người Việt mình rất nhân văn, không có tục bó chân đau đớn như bên Trung Quốc, cũng chẳng có tục tùy táng người hầu, vợ lẽ sau khi chết…

Việt cổ có tục xăm mình, ăn trầu và nhuộm răng đen.

Người Việt xưa đặt tên con gái thì bưng nguyên chữ 氏 thị làm chữ lót một cách bất di bất dịch.

Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan, bà là chánh thất vua Gia Long, là mẹ đẻ của hoàng tử Cảnh.

Đoan Huy Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc – tên thường gọi là Bà Từ Cung là thứ thất của vua Khải Định – mẹ của vua Bảo Đại… rồi bà Nguyễn Hữu Thị Lan, bà Bùi Thị Xuân, Ngô Đình Thị Hiệp…

Tuy nhiên, không phải cứ con gái là đặt thị, có người không lót chữ thị như:

Bà Đạm Phương nữ sử tên thật là Công Tôn Nữ Đồng Canh là cháu nội vua Minh Mạng.

Ca sĩ Quỳnh Giao tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang là cháu sơ vua Minh Mạng.

Nhưng lại có bà Tôn Nữ Thị Ninh.

Còn có cái tên rất hay và đặc biệt như: Công Tằng Tôn Nữ Tạ Thị Đánh Đu Tòn Ten Bong Lòng Đèn Lấp La Lấp Lánh Như Ánh Thuỳ Dương. Ta nghe Thị Mẹt, Thị Màu, Thị Nở, Thị Hết, Thị Bẹt là một dạng gọi trỏng của người Việt Nam..

Lý do trong tên con trai có chữ  "Văn"

Văn ra đời sau chữ thị vì phụ hệ đi sau mẫu hệ.

Trong Nho giáo xưa thì văn là giỏi, trau dồi học vấn, văn ôn võ luyện.

Võ thì mạnh bạo, nhưng sát phạt, không dám khoe, văn thì phải khoe.

Ông bà ta quan niệm học hành thi cử tiến thân rằng.

“Trai nam nhân thi chữ

Gái thục nữ thi tài”

Chữ 文 Văn xuất xứ đầu tiên nghĩa là “chữ”.

Chữ tượng hình là chữ bắt chước hình tượng các loài mà đặt ra kêu là “văn” 文, gộp cả hình với tiếng gọi là “tự” 字.

Văn tự là chữ viết, thành ra ta có Anh Văn, Pháp Văn, Hoa Văn…

Văn còn là “văn minh” 文明, “văn hóa” 文化.

Người xưa tôn thờ sao Văn Xương, Văn Khúc vì tượng trưng cho thông minh, hiếu học, học giỏi, văn chương, mỹ thuật, âm nhạc, thành đạt.

“Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ

Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu

Anh về học lấy chữ nhu

Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”

Người Việt thích lót chữ văn cho con trai mục đích là muốn con mình học giỏi, thi đậu, thành đạt.

Tuy nhiên, chữ văn cũng như thị, người Việt không phải cứ con trai là lót chữ văn.

Thí dụ như Hồ Quý Ly có con là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương.

Nhà Lê Sơ, con cháu Lê Lợi đặt tên là Lê Nguyên Long, Lê Bang Cơ, Lê Nghi Dân, Lê Tư Thành…

Chúa Nguyễn thì lót chữ Phúc cho con, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Khoát…

Họ Ngô thì lấy chữ Đình lót cho con: Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm…

Xem thêm: Những điều ít người biết về Ngã Tư Hàng Sanh, Sài Gòn trước năm 1975