Cuộc "tuyển vua" kỳ lạ thời Hùng Vương: Lên ngôi nhờ bánh chưng, bánh dày
Cách đây mấy nghìn năm có một vị vua thuộc triều đại Hùng Vương đã thể hiện được tài đức, giành được ngôi báu thông qua cuộc thi đầy gay cấn. Đó là ai?
Các triều đại phong kiến Việt Nam tổ chức các khoa thi để tuyển chọn nhân tài, phụng sự đất nước là chuyện rất thường tình. Thế nhưng, ngược chiều thời gian về trước nữa, cách đây vài nghìn năm thì có xuất hiện 1 cuộc "tuyển vua" kỳ lạ. Đó là ở nước Văn Lang cổ, thời Hùng Vương.
Đây là triều đại tồn tại trong truyền thuyết và huyền sử, vì vậy, câu chuyện thi đỗ vào vị trí vua này cũng là truyện dân gian truyền miệng.
Vị vua giành được ngôi báu nhờ thi tuyển đó là Hùng Vương thứ 7. Trong 18 đời vua Hùng, ông là vị nổi tiếng nhất. người Việt vẫn biết đến ông qua cái tên thời còn là hoàng tử: Lang Liêu.
Tương truyền, Hùng Vương thứ 6 có 33 con trai (con trai vua Hùng đươc gọi là quan lang) và 19 con gái (gọi là các mỵ nương, hay mệ nàng). Sau khi phá giặc Ân, đất nước bình yên, vua nghĩ đến chuyện tìm người kế thừa ngôi báu, gọi các con trai đến phán rằng:
“Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý. Cuối năm nay, mỗi con hãy mang đến mâm cỗ với các thứ mỹ vị để ta dâng cúng tổ tiên, làm tròn đạo hiếu, cỗ của ai khiến ta vừa ý nhất thì sẽ được truyền ngôi”.
Mấy chục vị quan lang cho người tỏa đi khắp đất nước, từ rừng sâu, núi cao để biển cả xa xôi tìm của ngon vật lạ. Riêng vị lang thứ 18 có tên là Liêu vốn nghèo khó, mẹ trước kia bị vua ghẻ lạnh nên mất sớm, tả hữu ít người giúp đỡ nên nhìn quanh ngó quẩn không nghĩ ra món gì dâng lên.
Bỗng một đêm, Lang Liêu mộng thấy thần lên bảo: "Các vật quý trong trời đất không gì bằng gạo. Gạo do người làm ra, có thể nuôi người khỏe mạnh mà ăn không bao giờ chán. Nay hãy đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng cho trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ”.
Lang Liêu tỉnh dậy, càng nghĩ càng mừng, nói rằng: "Thần nhân giúp ta". Rồi chàng liền cho người chọn thứ gạo nếp trắng tinh, chọn những hạt mẩy nhất vo sạch để làm bánh hình vuông tượng trưng cho đất, ở giữa cho nhân gồm đậu xanh, thịt lợn. Bên ngoài bọc lá xanh, đại diện cho cây cỏ muông thú. Bánh gói xong nấu trong nhiều giờ cho chín, gọi là bánh chưng.
Chàng lại cho đồ chín gạo nếp giã nhuyễn, nặn thành bánh hình tròn tượng trưng cho trời, gọi là bánh dày.
Đến kỳ, các quan lang dâng lên vua cha những mâm cúng toàn là sơn hào hải vị, của ngon vật lạ khó kiếm trong trời đất. Riêng của quan lang thứ 18 là đơn sơ nhất, đến nỗi các anh em đều cười cợt, xem thường.
Không ngờ vua Hùng lại dừng lại ở mâm của Lang Liêu lâu nhất. Ngài hỏi con trai về ý nghĩa, cách làm 2 loại bánh lạ này. Càng nghe con trai nói, vua càng hài lòng, cảm thấy 2 loại bánh này khi dâng cúng sẽ thể hiện được tấm lòng hiếu thảo, biết ơn của ngài đối với tổ tiên, trời đất. Vua bèn truyền ngôi cho Lang Liêu, trở thành Hùng Vương thứ 7.
Theo Ngọc phả Hùng Vương do Hàn lâm trực học sĩ Nguyễn Cố phụng mệnh vua Lê biên soạn vào năm 1470 thì: Vua Hùng thứ 7 có hiệu là Hùng Chiêu Vương. Ông là 1 trong những vua Hùng sống thọ nhất, ở ngôi đến 200 năm.
Theo sách này, thời Hùng Chiêu Vương trị vì, đạo Phật được truyền vào nước ta. Từ các đời vua trước, Ngọc phả có nhắc đến đền chùa nhưng việc tế tự chỉ thấy nói đến đền thờ thần tiên, tổ tiên, đến vua Hùng thứ 7 mới xuất hiện các từ của nhà Phật như biển Giác, Bát nhã, Niết bàn, ăn ở chay tịnh...
Cụ thể, Ngọc phả viết: “…Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa. Lão ông nói: ‘Ta là thần miền Tây Vực, cư trú lâu ngày ở biển Giác, chu du trên thuyền Bát nhã (trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây’.
Vua mừng thầm: ‘Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông’. Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng lóa cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời.
Bấy giờ Hùng Chiêu Vương mới biết đó là đức Phật bèn sụp quỳ lạy tạ. Ngày hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh".
Đời Hùng Chiêu Vương còn một số sự kiện đặc biệt nữa được Ngọc phả kể lại, đó là xuất hiện ấn tượng trưng của vương quyền: "Rồi đó Chiêu Vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng rồng bằng ngọc tạc thành cái chuôi kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ ‘Thiên Linh ấn’, trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ ‘Thiên Lĩnh nhẫn’. Từ đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh”.
Xem thêm: Lang Liêu - Vua Hùng thứ 7 và truyền thuyết "tìm vợ nhờ giấc mơ"
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận