Truyền thuyết thần tướng hiển linh cho danh tướng mượn thuyền đánh giặc

Trong giấc mộng, Trần Quốc Tuấn thấy có một vị thần tướng mạo khác thường, mắt sáng như sao, mặc áo bào đỏ tiến tới nói cho mượn chiến thuyền dàn trận chống giặc. 

Truyền thuyết thần tướng hiển linh cho danh tướng mượn thuyền đánh giặc

Trong giấc mộng, Trần Quốc Tuấn thấy có một vị thần tướng mạo khác thường, mắt sáng như sao, mặc áo bào đỏ tiến tới nói cho mượn chiến thuyền dàn trận chống giặc. 

Chuyện Phi Bồng tướng quân hiển linh giúp nước

Kiếp Bạc là địa danh nổi tiếng gắn liền với người anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Kiếp Bạc là tên ghép của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Đây là di tích quan trọng thuộc khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc.

Vào thế kỷ 13, đây là nơi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2. Từ Vạn Kiếp, có nhiều đường thủy bộ lên núi, xuống vùng đồng bằng, đi ra biển... rất cả tạo thành một cảnh quan hùng vỹ, một vị trí quân sự quan trọng và chứa đựng trong nó nhiều truyền thuyết ly kỳ.

Dưới chân núi Ngũ Nhạc, sát với núi Phượng Hoàng có một ngôi đền được xây dựng từ lâu đời. Đến triều Lý và triều Trần được mở rộng quy mô. Đền này thờ một vị thần có hiệu là Phi Bồng đại tướng quân. Nhân dân hay gọi là "đức thánh yên mô" (nay là thôn Yên Mô, xã Lê Lợi, huyện Chí Linh, Hải Dương).

Tại đền này có 4 tấm bia 4 mặt có tên là Thần tích bi Ký (bia ghi thần tích) dựng năm Đinh Sửu niên hiệu Bảo Đại thứ 12 (1937) nói về sự tích của Ngài. Theo đó, xưa kia, Yên Mô là một trang ấp, có gia đình ông Chu Thức và vợ là Hoàng Thị Ba (hiệu Diệu La) sinh sống. Họ vốn là người lương thiện, chăm làm việc phúc, có nghề cày cấy nên ai cũng quý mến.

Thế nhưng họ có một nỗi buồn là dù đã cao tuổi nhưng vẫn chưa có con nối dõi. Vì thế, họ thành tâm làm lễ cầu phúc sinh con trai, thường xuyên đi chùa chiền, lại ra sức cứu giúp người nghèo.

Đền thờ Phi Bồng đại tướng quân ở Chí Linh, Hải Dương

Vào một ngày nọ, ông bà đến chùa Trường Liêu lễ bái rồi ngủ tại chùa. Đến nửa đêm thì nằm mộng thấy sứ giả cho biết Ngọc Hoàng giáng cho một ngôi sao xuống đầu thai làm con. Sau người này sẽ giúp dân, cứu nước.

Đúng 1 năm sau, vào giờ ngọ ngày 5 tháng 5 năm Ngọ thì sinh ra một cậu bé khôi ngô khác thường. Khi sinh thấy trời đất mờ mịt, hương thơm tỏa khắp, trên trời như có ba tiếng sấm; hai vợ chồng mừng rỡ đặt tên con là Chu Hiệu, tự là Phúc Uy.

Phú Uy được cha mẹ quan tâm, giáo dục cẩn thận từ tấm bé. Thường ngày cậu sẽ ở trong phòng đọc văn thư, tối đến luyện binh thư võ lược, cung tên. Năm 15 tuổi, cha mẹ Phúc Uy lần lượt qua đời. Phúc Uy ngày nào cũng đèn hương, một lòng kính hiếu, làng xóm đều biết nên ai cũng cảm phục.

Đến năm Nhâm Tuất (542), khi nghe tin Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, Chu Phúc Uy tập hợp được hơn 10 người tài giỏi đi theo phò giúp, được Lý Bí phong làm Nha tướng.

Đến năm Giáp Tý (544) Lý Bí lên ngôi tự xưng là Nam Việt Đế (sử quen gọi là Lý Nam Đế); vua đã phong cho Chu Phúc Uy là Uy Vũ Đại tướng quân, lệnh cho trấn giữ Hải Dương. Ở đây, ông quan tâm đến dân chúng, khuyến khích họ trồng cấy, ban tiền bạc để mua ruộng, đất... Ai ai cũng đội ơn công đức trời bể này.

Chính sử chép, vào tháng 6 năm Ất Sửu (545) vua Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem một lực lượng lớn binh mã sang xâm lược nước ta, mặc dù tổ chức chặn đánh quyết liệt nhưng vì thế giặc quá mạnh nên quân ta dần dần bị đẩy lui, nhiều thành lũy rơi vào tay giặc.

Thần tích ghi, lúc giặc kéo sang, Lý Nam Đế gọi Chu Phúc Uy về trấn giữ Bắc Đạo, ông cầm quân đánh giặc ở sông Thiên Đức nhưng bị thương đành phải thu quân rút về Việt Yên rồi hóa ở đó vào ngày 11 tháng 8.

Người dân trang Yên Mô là nơi Chu Phúc Uy đặt hành doanh khi trấn trị ở Hải Dương, nghe tin buồn đã cùng nhau lập đền thờ ông. Tâm bia thần tích có chép rằng: "Đến triều Lý, khi vua Thái Tông về chùa Cổ Pháp, qua sông Thiên Đức thường mơ mộng thấy có người nói rằng: 

- Thiên hạ gặp loạn, gia đình ta là nhà trung hiếu, tính danh nổi tiếng, sáng tựa nhật nguyệt trên trời.

Khi đến nơi thì không ai còn thấy bóng ai cả. Vua bèn quan sông về quê cũ của cha mẹ thần, tô tượng để thờ phụng. Đồng thời sai quan viết biển ngạch ban phong, cho tiền lập miếu thờ, phong là Thượng đẳng thần. Trang Yên Mô là ấp thang mộc, được miễn sưu dịch và phong là Hiệu Phi Thiên Bồng.

Đến khi đánh giặc Chiêm, Thái Tông đến Thiên Đức bỗng có tiếng sấm lớn, mây lành che phủ thuyền rồng, giúp cho quân đội nhà vua. Tương truyền, một ngày vượt qua bao bãi biển to nhỏ tiến thẳng đến đồn Chiêm. Vua Chiêm nghênh chiến, bỗng thấy xuất hiện vị Thần tướng xông thẳng vào trước mặt vua Chiêm hô lớn: 

- Ta là Thiên thần Hiệu Phi Thiên Bồng phụng sắc của Ngọc Hoàng trợ giúp thánh quân.

Nói xong, bèn đẩy binh tả hữu, thăng thiên nhập địa, biến tướng hiện hình, hô mưa hoán gió, xuống nước, lên núi, xuất thần nhập thánh, biến hóa khôn lường. Giặc Chiêm ai nấy đều thất kinh, hồn xiêu phách lạc... Quân ta vì thế mà không mệt mỏi vẫn dẹp yên giặc Chiêm. Vua Chiêm rút về nước. Triều đình ban sắc đổi Yên Mô là Phấn Lôi để tỏ lòng nhớ đến công lao hiển hách của thần vậy.

Sau này, khi triều Trần lợn, Hưng Đạo Vương cầu đảo ở miếu nên đã hiển ứng ở bến sông Bạch Đằng. Bởi vậy, trải qua các triều thần đều có sắc phong tặng thần".

Thần tướng hiển linh cho Hưng Đạo Vương mượn thuyền chiến đánh giặc

Trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép rằng, khi Thoát Hoan chuẩn bị dẫn 50 vạn đại binh xâm lược nước ta, tháng 8 năm Giáp Thân (1284) triều đình sai Trần Hưng Đạo "điều các quân của vương hầu, duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, chia các quân đóng giữ Bình Than và những nơi xung yếu khác".

Vào ngày 26 tháng 12 năm đó, quân Nguyên bắt đầu tấn công đánh chiếm các cửa ải ở biên giới. Quân ta phải lùi về Vạn Kiếp để củng cố binh lực và bàn kế sách mới.

Tại đây, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tích cực rèn luyện binh sĩ, cho xây dựng phòng tuyến chống giặc. Đồng thời ra sức đóng thuyền, rèn thêm vũ khí, tích trữ lương thảo... 

Vào tháng giêng năm Ất Dậu (1285), Trần Hưng Đạo tập hợp 20 vạn quân ở Vạn Kiếp. Nhưng khi đó, đoàn quân nước Nam gặp một vấn đề là thiếu nhiều chiến thuyền mà việc đóng thuyền thì không kịp. Theo tình báo, cánh quân tiên phong của nhà Nguyên đã sắp đánh đến Vạn Kiếp.

Trước tình thế này, Trần Quốc Tuấn thức đến khuya để tìm kế đánh giặc. Lúc sau do mệt quá nên thiếp đi trên bàn làm việc. Trong mộng, ông thấy có một vị thần tướng dung mạo khác thường, mắt sáng như sao, mặc áo bào đỏ tiến tới và nói: "Tôi là Phi Bồng đại tướng quân, biết tướng quân hiện nay không có đủ thuyền cho đội thủy quân bày trận chống giặc nên đến giúp. Sáng mai tướng quân cho người đến bến Lục Đầu, tôi sẽ cấp đủ số thuyền mà tướng quân cần".

Nói xong, vị thần tướng này biến mất. Trần Hưng Đạo giật mình tỉnh giấc mơ hay đó là một giấc mơ nhưng hình dáng và lời nói của vị thần đó vẫn còn nhớ rõ. Ông liền ra sân vái thiên địa và cầu thần linh phù quốc, phụ giúp việc chống giặc, sau đó vào trướng nằm nghỉ ngơi.

Sáng hôm sau, Trần Hưng Đạo thấy một viên tướng vào báo: "Bẩm Quốc công, quân lính đi tuần thấy chuyện vô cùng kỳ lạ. Đêm qua không rõ thuyền ở đâu kéo về đậu kín cả bến sông".

Hưng Đạo Vương vội đến xem xét, ông tin rằng vị thần trong giấc mộng đã giúp mình số thuyền này nên thầm cảm tạ rồi giao cho binh tướng dưới quyền phân chia, sắp xếp chiến thuyền bày trận đánh giặc.

Cho đến nay, đây là câu chuyện truyền thuyết vừa hư vừa thực, chưa biết như thế nào. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, vào tháng 5 năm đó (1285) quân ta đã đánh tan đạo quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy tại đây.Sau trận đánh oai hùng đó, nước ta trở lại bình yên. Trần Hưng Đạo ra lệnh cho đoàn quân chiến thuyền về đậu ở bến Lục Đầu. Tiếp đó ông sắm lễ vật, trước ba quân tướng sĩ làm lễ khấn tạ rằng: "Nhờ Phi Bồng tướng quân cho mượn thuyền chống giặc. Nay giặc đã tan, Trần Quốc Tuấn tôi xin hoàn trả lại ngài".

Đêm hôm đó trời bỗng nổi cơn mưa gió, sóng nước cuộn dâng, đoàn thuyền tự nhiên biến mất. Sáng hôm  trên dãy núi Phượng Hoàng xuất hiện vệt đường. Ngày nay, khi đến thăm khu di tích lịch sử đền Kiếp Bạc, nếu đi hướng Đông Nam, nhìn về phía bên tay phải, du khách sẽ gặp một dãy núi chạy dài.

Trên sườn núi có 2 vệt màu xanh lam chạy dọc theo dãy núi, tương truyền rằng đó chính là đường kéo thuyền, một đường Phi Bồng đại tướng quân kéo thuyền xuống giúp Trần Hưng Đạo đánh giặc, còn đường kia là đường Ngài kéo thuyền về.

Xem thêm: Cái đức của Hưng Đạo Vương: Giao binh cho kẻ đắc tội với mình, tạo nên chiến công ngoạn mục