Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Người đầu tiên trong sử Việt coi trọng việc giữ gìn chủ quyền biển đảo
Theo Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chỉ khi giữ gìn được Biển Đông thì đất nước mới thái bình, thịnh trị muôn đời.
Người đầu tiên trong lịch sử VN coi trọng việc giữ gìn chủ quyền biển đảo
Nguyễn Bỉnh Khiêm là người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng (nay là huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng). Lúc nhỏ ông có tên Nguyễn Văn Đạt.
Ông sinh ra trong gia đình có bố mẹ nổi tiếng học rộng. Thân mẫu là con út quan tiến sĩ thượng thư bộ Hộ triều vua Lê Thánh Tông. Chính vì thế, từ sớm ông đã được giáo dục cẩn thận, rèn luyện về cả thể lực và trí tuệ nên "to khỏe, thông minh khác thường, chưa đến một tuổi đã nói sõi".
Năm 4 tuổi, ông được mẹ dạy sách Kinh, thơ Nôm.... Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều (nay là huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa) nổi danh trong giới sĩ phu đương thời thì đến tận nơi tầm sư học đạo. Vì sáng dạ nên ông nhanh chóng trở thành học trò xuất sắc, được thầy giáo con trai cho nuôi dạy.
Khi nhà Lê rơi vào khủng hoảng, ông không ra ứng thí sớm. Tính từ khi trưởng thành, ông bỏi qua 6 khoa thi dưới triều Lê Sơ. Ngay cả khi nhà Mạc lên thay cho Lê sơ năm 1527, xã hội dần ổn định, ông vẫn bỏ 2 khoa thi đầu dưới triều Mạc.
Đến năm 1535, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, thời thịnh trị nhất của nhà Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay trạng nguyên. Năm đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ngoài 40 tuổi.
Sau khi đỗ đạt, ông được giữ nhiều chức vụ, được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi Trình Quốc Công nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.
Trong gần 20 năm (từ 53 đến 73 tuổi), ông không ra ở hẳn kinh sư nhưng vẫn đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong triều. Sách Lịch triều hiến chương loại chí có chép: "Vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông. Có lúc còn triệu ông về kinh để hỏi mưu lớn", "ông học rộng, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch, mưa nắng, họa, phúc việc gì cũng biết trước".
Sử sách của Việt Nam đều thừa nhận, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài. Coi ông là nhà tiên tri số 1 nước Việt. Ông từng đưa ra nhiều lời sấm truyền và đã ứng nghiệm.
Ông còn được xem là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn chủ quyền biển đảo. Điều này được thể hiện qua bài thơ "Cự Ngao Đới Sơn": "Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/ Đất Việt muôn năm vững trị bình/ Chí những phù nguy xin gắng sức/ Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình".
Câu này như lời khuyên của Trạng Trình với thế hệ sau, rằng phải nắm giữ được biển Đông thì đất nước mới thái bình, thịnh trị muôn đời.
Trong bài viết Tầm nhìn chiến lược về biển đảo của Trạng Trình từ 500 năm trước, tác giả Nguyễn Đình Minh nhận định: "Trước đây khi đề cập đến lãnh thổ, chúng ta thường nói nhiều về sông núi, đất đai, chúng ta có nói về biển nhưng không nhiều, biển không là trọng điểm nhấn mạnh. Nhưng từ 500 năm trước, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo tầm quan trọng của biển đảo dẫn đến sự tồn vong thịnh trị của cả quốc gia. Điều ấy cho thấy tầm chiến lược về bảo vệ của ông rất rộng lớn và toàn diện".
Nguyễn Bỉnh Khiêm - giáo dục là cứu nhân độ thế
Không chỉ là một vị quan thanh liêm, nhà tiên tri lỗi lạc, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là một thầy đồ có tâm, có tầm. Theo cuốn Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp - ba bậc thầy của nền giáo dục Việt Nam, học trò được ông đào tạo thời kỳ này có rất nhiều người nổi tiếng về sau.
Trong đó có Lương Hữu Khánh, con trai của thầy Lương Đắc Bằng, đỗ cử nhân, trở thành tướng giỏi, văn võ song toàn; Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan thi đỗ tiến sĩ, có tài năng toàn diện về võ bị, văn học và ngoại giao; Nguyễn Dữ - nhà văn nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam...
Đến khi lui về quê , ông đã dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học bên cạnh sông Tuyết (hay sông Hàn) ở quê nhà. Vì thế, sau này các môn sinh tôn ông là "Tuyết Giang phu tử".
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn viết bài ký bia dựng bên quán, đại lược rằng: hía đông nhìn ra biển, phía tây ngó ra ngõ, phia nam chạy dài đến khe Liêm, tức là am ở giữa Bích động, hai bên nối tiếp với nhau, phía bắc nhìn xuống dỏng Tuyết Giang, bến Thi Nguyệt (thơ trăng) lạnh lẽo, trái phải là một dải đại lộ bắc ngang. Trong đó đã có không biết ngàn dặm dấu xe ngựa".
Ông giải nghĩa từ "Quán Trung Tân": Quán là cái nhà, trung nghĩa là ở vào chính giữa không thiên lệch về bên nào, giữ trọn được điều thiện là trung, không giữ trọn được tính thiện tức không phải là trung, tán là cái bến, biết chỗ đáng dừng thì dừng gọi là đúng "bến", không biết chỗ đáng dừng gọi là lầm bến. Đó là nghĩa của tên quán là như vậy.
Khi lui về, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã giáo dục cho nhân dân và học trò rất nhiều về đạo làm người, đạo lý ở đời, sự học, cách học. Ông coi việc giáo dục phải thực hiện được vai trò định hướng ý chí và hành động cho người học, nhất là việc gắn ý chí học hành với lý tưởng cống hiến hết mình cho đất nước.
Trạng Trình đặc biệt đề cao trách nhiệm cống hiến xã hội không ngừng, cho rằng tác dụng cao nhất của giáo dục là cứu nhân độ thế, hướng con người trở về tịnh thiện bởi "thiện là dòng dõi của giáo dục", đúng như phương châm sư phạm xưa.
Trên cơ sở giáo dục cái thiện, Tuyết Giang phu tử vẫn dạy kinh, truyện theo đúng chương trình thi cử thời bấy giờ. Theo các thư tịch cổ, việc thi cử lúc bấy giờ rất quy mô, học sinh học vất vả, thầy giáo phải bỏ nhiều công kèm cặp. Việc học trò của thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm chiếm gần hết thứ hạng cao ở các kỳ thi chứng tỏ việc dạy học của ông quy củ, nghiêm khắc.
"Thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm còn khác người ở chỗ muốn đào tạo học trò thành những người có thực học, có trí thức toàn diện để giúp đời", tác giả Trần Lê Sáng viết trong cuốn sách về ba bậc thầy của nền giáo dục Việt Nam.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ông luôn chủ trương thúc đẩy con người nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh, có cách hành xử đúng mực trong đời sống. Ông coi việc học phải nhằm hành đạo. Ông yêu cầu học trò nêu gương bậc thánh hiền, đề cao vai trò của sự tìm tòi, học hỏi.
Ông còn coi trọng đạo lý hơn văn chương. Điều này thể hiện rõ trong các tác phẩm thơ văn. Ông sáng tác nhiều thơ, bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Về thơ chữ Hán, Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân am thi tập với khoảng một nghìn bài. PGS.TS Trần Thị Vinh viết trong cuốn Nhà Mạc và thời đại nhà Mạc - Hơn hai mươi năm nghiên cứu và nhận thức rằng đây là con số mà từ thời đại nhà Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có. Đến như Nguyễn Trãi cũng chỉ có 105 bài.
Về thơ chữ Nôm, Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập nhưng không rõ có tất cả bao nhiêu bài. Ngoài ra, ông để lại nhiều bài văn bia và sấm ký. Ông được coi là người viết nhiều thơ văn nhất trong năm thế kỷ đầu tiên của nền văn học nước nhà.
Tuyết Giang phu tử mất năm 1585. Ông ra đi nhưng đã để lại rất nhiều đóng góp của cho nền văn hóa dân tộc, đóng góp lớn lao cho sự nghiệp giáo dục được nhiều nhà khoa học đánh giá cao. Tất cả thành tựu giáo dục ở thời Mạc, không thể không nhắc tới công lao của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngày nay, nhiều trường học được đặt theo tên ông nhằm tưởng nhớ đến bậc thầy vĩ đại.
Xem thêm: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Nhà tiên tri hàng đầu cùng giai thoại khiến nhiều người trầm trồ
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận