Tổng ôn: Full dàn ý chi tiết phân tích các tác phẩm văn học 12

Ở giai đoạn "nước rút" này, các bạn 2K5 đừng quên tổng ôn lại một lượt các tác phẩm trọng tâm để tự tin bước vào phòng thi nhé.

Đỗ Thu Nga
10:00 23/06/2023 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Dưới đây là những dàn bài chi tiết các tác phẩm trọng tâm môn Ngữ văn 12. Các bạn nắm chắc được thì dễ dàng triển khai, lấy điểm 9, 9+ Ngữ văn trong kỳ thi tốt nghiệp THPT 2023:

VỢ CHỒNG A PHỦ

I. KIẾN THỨC CHUNG

1. Tác giả Tô Hoài:

- Nguyễn Sen (1920). Quê nội ở Thanh Oai- Hà Đông. Viết văn từ trước Cách mạng, sáng tác với nhiều thể loại Số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú về các phong tục tập quán, văn hóa của các vùng miền trên đất nước.

- Một số tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu ký (1941), O chuột (1942), Truyện Tây Bắc (1953)…

2. Tác phẩm:

- Hoàn cảnh sáng tác: Trong chuyến đi thực tế dài 8 tháng cùng bộ đội và giải phóng Tây Bắc.

- “Vợ chồng A Phủ” In trong tập “Truyện Tây Bắc“- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Nhân vật Mị

a. Cảnh ngộ của nhân vật Mị:

* Trước khi làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra:

- Mị là cô gái xinh đẹp như "bông hoa ban giữa núi rừng Tây Bắc"

- Tài năng: Mị có tài thổi lá hay như thổi sáo, bao nhiêu người theo Mị

- Hiếu thảo, chăm chỉ, yêu tự do: "Con nay đã biết quốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu"

* Sau khi trở thành dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra:

- Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị bọ A Sử bắt về làm vợ, trở thành con dâu gạt nợ cho nhà hắn.

- Mị chỉ biết làm những công việc mà quanh năm ngày tháng làm đi làm lại,làm không ngưng nghỉ. Con trâu con ngựa nó còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ chứ đàn bà nhà này thì làm không nghỉ tay.

- Mị sống trong một căn phòng chỉ có một ô vuông bằng bàn tay để nhìn ra ngoài cũng không thể biết được trời nắng hay mưa chỉ biết thấy mờ mờ trăng trắng.

b. Tâm trạng và hành động

- Tâm trạng và hành động của Mị cho thấy, trong Mị có một sức sống tiềm tàng vẫn luôn âm ỉ, đó là khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc dẫu còn tự phát và bản năng. Khát vọng đó rất mãnh liệt và khi có cơ hội sẽ bùng phát.

- Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị:

+ Đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm tàng một cô Mị ngày xưa một cô Mị trẻ đẹp như đoá hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung giàu đức hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị được gửi vào tiếng sáo: "Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo".

+ Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi "trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị", Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.

+ Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. "Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc". Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một con người đúng nghĩa c khiến Mị không chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử bất công như một con vật.

Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên.

tong-on-full-dan-y-chi-tiet-phan-tich-cac-tac-pham-van-hoc-12-i

- Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở Mị:

Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:

+ "Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm rồi sang màu tím man mác".

+ "Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà"

+ Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. "Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một". Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uổng hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.

+ Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng.

"Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang hỏi". "Ngày trước Mị thổi sáo giỏi... Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng như thổi sáo", "Tai Mị vang tiếng gọi bạn đầu làng", "mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường", "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo"...

- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:

+ Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: "Mị còn phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm đến ngày trước". "Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi". Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình: "Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết"...

+ Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động "lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu". Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.

+ Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị "quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách".

+ Mị đang chuẩn bị sắm sửa để đi chơi nhưng rồi bị A Sử cấm cho đi chơi hắn cột Mị vào nhà cột cả tóc lên khiến Mị không ngẩng đầu lên được đó là một hành động mất hết nhân tính, Mị vẫn đang du mình trong đêm xuân những tiếng ngựa ngoài kia làm cho Mị tỉn giấc nàng đã trở lại với hiện tại, một hiện tại đau khổ và phải chịu đau thương cả về thể xác lẫn tinh thần.c. Tâm trạng và hành động của MỊ trong hoàn cảnh cởi trói cứu A Phủ và chạy trốn theo A Phủ.

- Diễn biến tâm lí trong đêm đông:

+ Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm: "Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay", vì những cảnh tượng ấy đã diễn ra trong nhà Thông lí thường xuyên.

+ Nhưng "Mị lé mắt trông sang... một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại", giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo: cắt dây cởi trói cứu A Phủ.

=> Cắt dây trói vô hình cho chính cuộc đời mình.

+ Hệ quả tất yếu là Mị phải chạy trốn theo A Phủ, vì Mị biết: "ở đây thì chết mất".

+ Cắt dây cởi trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài của Mị là hành động vùng dậy tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, phản ứng lại đối với sự cai trị tàn bạo của bọn thống trị, nhằm mục đích tự giải phóng.

2. Nhân vật A Phủ

a. Xuất thân của A Phủ

– Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ.

– Là con người không bao giờ chùn bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.

b. Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống lí

– Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà thống lí, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.

– Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt.

– Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời thống lí, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.

c. Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt

– Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”.

– Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ”vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.

– Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lí. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.

* Đánh giá

– Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lí thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.

– Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.

– Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng.

– Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lí thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lí thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.

3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm:

• Tác giả phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn của con người Tây Bắc.

• Tin tưởng và miêu tả khả năng cách mạng của người dân miền núi trong cuộc đấu tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến .

• Biểu lộ sự căm ghét đối với chế độ thực dân, phong kiến.

• Nêu những nét nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm:

• Miêu tả chiều sâu tâm lí, tính cách nhân vật.

• Tả cảnh, tái tạo không khí rừng núi vùng cao vừa thực vừa giàu chất thơ…

(…) Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện chủ yếu qua cái nhìn đầy trìu mến, yêu thương của nhà văn khi viết về đồng bào các dân tộc miền núi. Những chàng trai cô gái Mèo của ông là những người rất đẹp. Tuy nghèo khổ nhưng họ là những người đẹp người đẹp nết, dũng cảm, yêu đời, yêu lao động, khỏe mạnh. Có thể dễ thấy điều này qua những từ ngữ đầy ưu ái Tô Hoài dành cho Mị và A Phủ: “Mị thổi sáo giỏi”, “Có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”, “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, còn A Phủ là chàng trai được nhiều người con gái ao ước: “A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa…”, “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Không dừng lại ở những đặc điểm bên ngoài, nhà văn tìm thấy ở họ những phẩm chất tốt đẹp. Mị thà phải lao động vất vả hơn làm con dâu nhà giàu, A Phủ dám đánh lại con nhà giàu để bênh vực cho lẽ phải, không hề khóc lóc van xin khi bị cha con thống lí đánh đập tàn nhẫn. A Phủ dám đòi đem súng đi bắn hổ, làm việc rất giỏi. A Phủ vẫn là con người thực sự. Bên ngoài cái xác không hồn khô cững của Mị, Tô Hoài nhận thấy tiền tàng một sự phản kháng, một sức mạnh kì diệu, một ngọn lửa tự do vẫn còn âm ỉ. Và hơn thế nữa sự yêu thương cưu mang lẫn nhau giữa những người cùng khổ. Mị đã cứu A Phủ và cả hai đã cùng chạy trốn, cùng nương tựa nhau mà sống: A Phủ nói: “Đi với tôi”. “Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống núi”. Sức mạnh ở những con người ấy, nếu biết giác ngộ, biết tổ chức lại thì nó sẽ tạo nên sức mạnh diệu kì làm kẻ thù khiếp sợ. Hiểu được điều này, Tô Hoài đã đặt trọn niềm tin vào khả năng cách mạng của Mị và A Phủ.

Bên cạnh hình ảnh vợ chồng A Phủ thật đẹp chan chứa sự thương yêu cảm thông và tin tưởng, Tô Hoài bộc lộ thái độ căm ghét đối với chế độ thực dân phong kiến qua hình ảnh cha con ông thống lí Pá Tra. Lên án cái xấu để bảo vệ cái đẹp cũng là nhân đạo. Tô Hoài đã giúp người đọc hình dung được sự tàn ác , dã man, bản chất bóc lột của bọn thực dân phong kiến khi miêu tả xác thực và sinh động cuộc sống của cha con thống lí.

Xét về hình thức, Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm đạt tới trình độ nghệ thuật điêu luyện.

• Tô Hoài đã dành khá nhiều tâm huyết trong việc miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật. Đặt nhân vật trong những hoàn cảnh thích hợp, tác giả đã miêu tả được bước chuyển sinh động của tâm lí nhân vật trong sự phát triển từ tiệm tiến đến đột biến, bất ngờ hợp lí và hấp dẫn. Nhân vật Mị từ chỗ cúi đầu, buồn câm lặng đến muốn đi chơi xuân; từ thờ ơ, dửng dưng đến cảm thương, quyết định cứu người cùng cảnh ngộ. Chi tiết Mị thấy những dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen của A Phủ là một trong những chi tiết rất đặc sắc, miêu tả được quá trình phát triển tâm lí trên của nhân vật Mị. Khác với Mị, A Phủ được làm nổi bật về tính cách của một chàng trai gan góc, giàu tinh thần phản kháng. Từ chỗ manh động, hiểu lầm... anh đã đi tới đấu tranh một cách tự giác và kiên quyết.

• Truyện diễn ra trong một khung cảnh đậm đà hương sắc Tây Bắc. Những trang viết về mùa xuân, về những đêm trai gái người dân tộc thiểu số người dân tộc thiểu số đi tìm bạn tình... là những trang vừa thực, vừa giàu chất thơ bay bổng. Chúng không chỉ dừng lại ở việc tả cảnh để xác định không gian truyện mà còn góp phần tích cực vào việc miêu tả tâm lí và tính cách, số phận nhân vật, đặc biệt là hai nhân vật Mị và A Phủ

4. Vài nét nghệ thuật:

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí: Nhân vật sinh động, có cá tính đậm nét (Với Mị, tác giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây ắn tượng sâu đậm, đặc biệt tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn…Với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc hoạ qua hành động, công việc, những đối thoại giản đơn).

+ Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,…).

+ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.

+ Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.

+ Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.

III. TỔNG KẾT.

- Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì huỷ diệt được của kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng Cách mạng soi đường đến một cuộc đời tươi sáng. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân dạo lớn lao, tiến bộ của Vợ chồng A Phủ.

- Những giá trị này đã giúp cho Tô Hoài, tác phẩm của Tô Hoài đứng vững trước thử thách của thời gian và được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.

TÂY TIẾN

I. KIẾN THỨC CHUNG

1. Tác giả

- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.

- Một hồn thơ lãng mạn, tài hoa: nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, thơ giàu chất nhạc, họa...

- Các tác phẩm chính: Rừng về xuôi; Mây đầu ô....

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh ra đời bài thơ

- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.

- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986)

b. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ

Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.

1. Nội dung

1.1. Đoạn 1: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

.....

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.

*Đoạn mở đầu bằng những dòng thơ chan chưa nối nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

- Từ láy “chơi vơi”, hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nối nhớ đồng

thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình nhưng rất thực.

- Điệp từ “nhớ” tô đậm cảm xúc toàn bài, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến. Nỗi nhớ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình khi xa cách chan chứa biết bao.

* Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng.

- Nhớ những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.

- Nhớ con đường hành quân gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm: Dốc khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút, sương lấp. Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời; Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ thứ ba tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi; ba dòng thơ liên tiếp sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn.

- Nhớ những những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy biến thung lũng thành ‘xa khơi”.

- Nhớ âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập vồ người mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội. Nơi đây thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.

-> Bức tranh của núi rừng miền Tây giàu được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên.

* Nỗi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm trên đường hành quân:

- Nhớ cái tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh “súng ngửi trời”. Nếu viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới,

sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội.

- Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không bi luỵ. Nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh gục bên súng mũ bỏ quên đời”.

- Nhớ tình cảm quân dân giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc “Nhớ ôi… thơm nếp xôi”. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới. Nhớ ôi!- nỗi nhớ da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của tổ quốc với bộ đội kháng chiến.

Nhận xét: Đoạn thơ chỉ là khúc dạo đầu của một bản nhạc về nối nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.

1.2. Đoạn 2: :

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

.....

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

a. Những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết qua những đêm liên hoan văn nghệ đậm màu sắc lãng mạn, trữ tình

- Đêm liên hoan được miêu tả bằng những chi tiết lãng mạn:

+ Đêm liên hoan như đêm hội giao duyên, đêm tân hôn của những cặp tình nhân (hội đuốc hoa)

+ Nhân vật trung tâm của đêm hội là những thiếu nữ Tây Bắc trong những bộ trang phục và vũ điệu vừa lộng lẫy, vừa e thẹn, tình tứ.

+ Cái nhìn trẻ trung, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê sung sướng của những người lính Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa.

Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc,tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp giàu bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến

b. Vẻ đẹp của con người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước Châu Mộc

- Không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ mộng

nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại.

- Nổi bật lên trên bức tranh sông nước là cái dáng mềm mại, uyển chuyển của các cô gái Thái trên con thuyền độc mộc.

- Những bông hoa rừng cũng như đang đong đưa làm duyên trên dòng nước lũ.

- Những bông lau ven rừng như có hồn và gợi nhớ da diết.

3. 3. Đoạn 3: Bức tượng người lính Tây Tiến bất tử với thời gian

Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.

- Vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn:

+ Sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: Thân hình tiều tuỵ vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến : không mọc tóc, xanh màu lá

+ Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ: xanh màu lá, dữ oai hùm

+ Trong gian khổ nhưng:

~ vẫn hướng về nhiệm vụ chiến đấu, vẫn “mộng qua biên giới” - mộng chiến công, khao khát lập công;

~ “mơ Hà Nội dáng kiều thơm” - mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.

Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính - những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc “mộng” và “mơ” ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến công.

- Vẻ đẹp bi tráng:

+ Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “Đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.

+ Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.

+ Họ coi cái chết tựa lông hồng. Sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.

+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” : Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.

+ Hàng loạt từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành… gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.

=> Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.

3.4. Đoạn 4: đoạn thơ còn lại

- Khẳng định vẻ đẹp tinh thần của người lính Tây Tiến đối với thời đại và đối với lịch sử:

+ Vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về.

+ Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là chứng nhân đẹp đẽ của thời đại chống thực dân Pháp.

- Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra đi không hẹn ngày về. Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến.

è Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.

4. Nghệ thuật

+ Cảm hứng lãng mạn, bi tráng

+ Sử dụng ngôn từ đặc sắc: từ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt

+ Kết hợp chất nhạc và họa.

Chủ đề: Qua bài thơ, Quang Dũng đó ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình, dữ dội mà mĩ lệ của thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc

5. của Tổ quốc, đặc biệt khắc vào thời gian một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa. 

VỢ NHẶT

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Đôi nét về Kim Lân

– Kim Lân (1920 – 2007). Trước CMT8: Ông chủ yếu viết về nông thôn, đề tài

người nông dân. Sau CMT8: Làm báo, viết văn. Một số tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)…

– Phong cách sáng tác: Cây bút chuyên viết truyện ngắn, chủ yếu viết về đề tài nông thôn, người nông dân.

2. Đôi nét về “Vợ nhặt”

– Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt.

– Xuất xứ: Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962). 3.Tóm tắt truyện “Vợ nhặt”

– Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.

4. Ý nghĩa nhan đề

– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.

– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

III. 1.Tình huống truyện

– Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.

– Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo ! Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ !

Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.

– Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

2. Nhân vật

2.1. TRÀNG

*Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:

– Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.

– Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.

Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.

– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:

+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.

+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”

* Niềm hạnh phúc khi có vợ :

– Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.

– Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.

Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.

– Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau :

+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.

+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.

+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.

+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.

+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.

+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp.

– Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.

2.2. THỊ - NGƯỜI VỢ NHẶT

– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.

– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị:

+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”

+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.

– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.

– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:

+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận

+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.

+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương

– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.

– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân

+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được

+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

2.3. BÀ CỤ TỨ

– Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diễn biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.

– Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoè đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoè, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.

– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.

Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.

– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà.

Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.

– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước:

+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, rẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.

+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán – cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.

+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.

– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.

Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.

3. GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ NHÂN ĐẠO

3.1. Giá trị hiện thực:

– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :

+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.

+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.

+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.

+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.

+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.

+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, sẹo xệch, rách nát.

+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.

+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.

– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945.

– Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.

3.2. Giá trị nhân đạo

+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.

+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.

+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.

+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.

III. TỔNG KẾT

1. Nghệ thuật

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.

– Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.

– Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.

– Nhân vật được khắc họa sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế.

– Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ.

2. Chủ đề

Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.

SÓNG

I. KIẾN THỨC CHUNG

1. Tác giả

- Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử

- Đặc điểm hồn thơ: tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc đời thường, bình dị, nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu.

II. Bài thơ “Sóng”

1. Hoàn cảnh sáng tác

Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).

2. Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ

- Âm điệu của bài thơ Sóng là âm điệu, của những con sóng ngoài biển khơi, lúc ào ạt, dữ dội lúc nhẹ nhàng, khoan thai. Âm điệu đó được tạo nên bởi: Thể ngũ ngôn với những câu thơ được ngắt nhịp linh hoạt.

- Bài thơ có hai hình tượng là “sóng” và “em” - lúc phân tách, soi chiếu vào nhau, lúc nhập hòa làm một trong một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh.

3. Nội dung

- Khổ 1 :

+ Sóng hiện ra với những đối cực Dữ dội >< Dịu êm; ồn ào>< lặng lẽ như những cung bậc tâm trạng của người phụ nữ khi yêu.

+ Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.

- Khổ 2 :

+ Từ ngàn, triệu năm qua, con sóng vẫn thế như từ ngàn, triệu năm qua, tình yêu vẫn là một khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ.

+ Đó cũng là khát vọng cháy bỏng trong trái tim không bao giờ thôi khát khao yêu đương của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

- Khổ 3, 4 :

+ Không thể truy nguyên nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu của con người. Đó mãi mãi là bí ẩn diệu kì, là sức hấp dẫn mời gọi của tình yêu. Không thể cắt nghĩa tình yêu và cũng chẳng nên cắt nghĩa tình yêu bởi rất có thể khi ta biết yêu vì lẽ gì thì cũng là lúc tình yêu ra đi.

+ Người phụ nữ, nhân vật em trong bài thơ cũng không thể cắt nghĩa được tình yêu. Một sự bất lực đáng yêu của một trái tim yêu không chỉ đòi hỏi cảm xúc mà còn đòi hỏi nhận thức mãnh liệt.

- Khổ 5 :

+ Con sóng, dù ở trạng thái nào (trong lòng sâu, trên mặt nước, ngày hay đêm), đều thao thức một nỗi niềm “nhớ bờ”. Nỗi nhớ choán cả không gian, thời gian.

+ Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ cũng vậy. Hạt nhân của nó là nỗi nhớ, một nỗi nhớ cồn cào, da diết, nỗi nhớ chiếm cả tầng sâu, chiều rộng và trải dài theo thời gian, lúc hiện hữu, khi lắng sâu, lúc ý thức, khi nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức.

Khổ 6, 7

+ Cũng như sóng chỉ có một hướng đích duy nhất là bờ, em chỉ có phương anh làm điểm đến, bất chấp cuộc đời có nhiều trái ngang.

+ Sự thuỷ chung của sóng với bờ hay cũng chính là sự chung thuỷ của em với anh. Nếu nỗi nhớ làm thành biểu hiện nồng nàn, sôi nổi của tình yêu thì sự thuỷ chung lại là phần đằm sâu trong trái tim người phụ nữ.

- Hai khổ cuối :

+ Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn trong tương quan với cái vô thuỷ, vô chung, vô cùng, vô tận của thiên nhiên, vũ trụ. Trước cái vĩnh hằng của tạo hoá, trước dòng chảy vô hồi, vô hạn của cuộc đời, tình yêu của con người mãi mãi chỉ là “bóng câu qua cửa sổ”. Đó là cảm thức về thời gian. Dường như càng yêu mãnh liệt, càng khát khao gắn bó, con người càng hay nghĩ về thời gian !

Người phụ nữ đang cháy bỏng khát khao yêu và được yêu trong Sóng cũng không phải là ngoại lệ.

+ Vậy, chỉ có một cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi. Đó là “Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hóa tình yêu, được hoà tình yêu của mình vào khối tình chung của nhân loại, như con sóng hòa vào đại dương mênh mông, bất tận.

4. Nghệ thuật

- Nhịp điệu độc đáo, giàu sức liên tưởng: thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp, gieo vần, nối khố linh hoạt

- Giọng điệu tha thiết chân thành, ít nhiều có sự phấp phỏng lo âu.

- Xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ nghệ thuật về tình yêu của người phụ nữ.

- Kết cấu song hành: sóng và em

5. Chủ đề: Sóng là bài thơ tình đặc sắc. Bài thơ là sự khám phá những khát vọng tình yêu của trái tim người phụ nữ chân thành, giàu khao khát nhưng cũng rất tự nhiên.

VIỆT BẮC

I. Hoàn cảnh sáng tác

- Việt Bắc là khu căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp

- Tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại ở miền Bắc. Tháng 10 năm 1954, ngay sau cuộc kháng chiến chống TDP kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu Việt Bắc để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.

II. Nội dung văn bản. 1.Kết cấu của bài thơ

+ Đối đáp giữa Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Đây là cuộc chia tay mang ý nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa sâu nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình bền chặt và hẹn ước trong tương lai.

+ Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca.

+ Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu nhau.

+ Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ mình – ta với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên. Chuyện nghĩa tình cách mạng, kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình yêu.

+ Nhìn sâu hơn vào kết cấu bài thơ thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở- người đi; lời hỏi- lời đáp có thể xem là sự phân thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.

2. Phân tích văn bản.

2.1. Tám câu đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng,lưu luyến giữa kẻ ở người đi.

- Bốn câu đầu: lời ướm hỏi của người ở lại.

+ Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng, cảnh và người VB gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời khẳng định tấm lòng thủy chung của mình.

+ Nghĩa tình của kẻ ở- người về được biểu hiện qua các đại từ mình- ta quen thuộc trong thơ ca dân gian gắn liền với tình yêu đôi lứa, cách xưng hô: mình- ta tạo nên sự thân mật, gần gũi. Điệp từ nhớ, láy đi, láy lại cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” vang lên day dứt khôn nguôi.

+ Các từ thiết tha, mặn nồng thể hiện bao ân tình gắn bó.

- Bốn câu sau: tiếng lòng của người cán bộ về xuôi

+ Tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, cùng với cử chỉ ‘cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm : chưa xa đã nhớ, sự bịn rịn luyến lưu của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc.

+ Lời hỏi của người ở lại đã khéo nhưng câu trả lời còn khéo léo hơn thế. Không phải là câu trả lời có hay không mà là những cử chỉ. Câu thơ bỏ lửng “cầm tay…” diễn tả thái độ nghẹn ngào không nói lên lời của người cán bộ giã từ Việt Bắc về xuôi.

+ Hình ảnh “áo chàm”- nghệ thuật hoán dụ, trang phục quen thuộc của người dân Việt Bắc. Rất có thể đó là hình ảnh thực, nhưng cũng có thể là hình ảnh trong tưởng tượng của người cán bộ kháng chiến để rồi mỗi lần hình ảnh áo chàm bay về trong tâm trí của người cán bộ là mỗi lần bao nỗi nhớ thân thương lại dội về.

è khúc dạo đầu của bản tình ca về nỗi nhớ.

2.2. Mười hai câu tiếp: gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ mà nghĩa tình:

- Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người VB:

+ Nhớ một thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù”

+ Nhớ một chiến khu đầy gian khổ, nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: cơm chấm muối, mối thù nặng vai.

+ Nhớ những sản vật miền rừng: trám bùi, măng mai.

+ Nhớ những mái nhà nghèo nàn nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng.

+ Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa.

- Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bát đậm chất dân gian, những cặp câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục tào thành một điệp khúc âm thanh: nó đan dày thành những cấu trúc thanh bằng- trắc- bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan thai.

- Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai… Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc gắn bó son sắt cùng với lối sống ân nghĩa thủy chung.

Người đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc nương náu trong những trang thơ lục bát của Tố Hữu.

- Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”: nhớ mình- tức nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.

2.3. Từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp nghĩa tình.

Nhớ gì như nhớ người yêu

……

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

- Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết.

- Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng đầu núi, nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể.

- Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Trong kí ức của người đi còn in dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đầu núi, nắng chiều lưng nương), từng khoảng không gian của cây, sông, suối (Nhớ từng rừng nứa… vơi đầy). Vẻ đẹp thiên nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi trong nỗi nhớ nhung của người ra đi.

- Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc: bình thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung:

+ Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

+ Nhớ đến nghĩa tình:người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô.

+ Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao … núi đèo

- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ … suối xa

=>Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình. Những câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu.

2.4. Từ câu 43 đến câu 52: bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Ta về mình có nhớ ta

.....

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

- Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định về nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.

- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng “người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.

- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:

+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian

+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.

+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.

+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.

- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:

+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao gài thắt lưng”.

+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón” + Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình

+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.

- Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại

+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả

+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh.

2.5. Từ câu 53 đến câu 83: khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến.

a. Từ câu 53-> 74

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

………………..Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên- nỗi nhớ con người cuộc sống ở Việt Bắc- nỗi nhớ về cuộc chiến đấu anh hùng chống TDP xâm lược. Theo dòng hồi tưởng, người đọc được sống lại những giây phút của cuộc kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.

+ Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta đánh giặc.

+ Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.

+ Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…lũy sắt, rừng che, rừng vây…

+ Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Cao- Lạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về xuôi.

+ Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi:

~ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần tạo thành khối đoàn kết vững chắc.

~ Các từ: Rầm rập, điệp điệp, trùng trùng…thể hiện khí thế dồn dập.

~ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan”-> ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.

~ Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.

+ Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên…

+ Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập.

+ Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, âm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.

b. Từ câu 75- câu 83.

Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.

3. Đặc sắc nghệ thuật

Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ trữ tình- chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.

- Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả.

- Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.

+ Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.

+ Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình

+ Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ)

+ Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc

4. Chủ đề

Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang tính chất riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đối với con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung.

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

I. KIẾN THỨC CHUNG

1. Hoàn cảnh ra đời

- Ngày 19/08/1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/08/1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội và tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn “Tuyên ngôn Độc lập”.

- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách : nền độc lập vừa mời giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp.

2. Giá trị lịch sử và văn học, mục đích, đối tượng của bản “Tuyên ngôn Độc lập”

- Giá trị lịch sử: Là văn kiện lịch sử vô giá, là lời tuyên bố của một dân tộc đã đứng lên xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, thực dân, thoát khỏi thân phận thuộc địa để hòa nhập vào cộng đồng nhân loại với tư cách là một nước độc lập, dân chủ, tự do.

tong-on-full-dan-y-chi-tiet-phan-tich-cac-tac-pham-van-hoc-12-r

- Giá trị văn học:

+ Giá trị tư tưởng: “Tuyên ngôn Độc lập” là tác phẩm kết tinh lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc và tinh thần yêu chuộng tự do.

+ Giá trị nghệ thuật: Là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, những bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục, ngôn ngữ gợi cảm, hùng hồn.

- Đối tượng: Nhân dân Việt Nam; Các nước trên thế giới; Bọn đế quốc, thực dân đang lăm le xâm lược nước ta : Mỹ, Pháp.

- Mục đích: Tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam mới; Ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, thực dân.

3. Nội dung

3.1. Phần 1 (từ đầu đến “Không ai chối cãi được”) : Nêu nguyên lí chung

- Người đã trích dẫn bản hai bản “Tuyên ngôn độc lập” (1776) của Mỹ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” (1791) của Pháp. Hai bản Tuyên ngôn này khẳng định quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi con người ở mọi dân tộc.

- Tác giả dùng chính lí lẽ của đối phương đáp trả lại đối phương, nhắc nhở đối phương đang đi ngược lại những gì mà tổ tiên họ để lại.

- Đặt ba cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, trong đó cách mạng Việt Nam cùng một lúc thực hiện nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng Mĩ, Pháp. Sánh vai các nước bé nhỏ với các cường quốc năm châu.

- Từ quyền con người Bác mở rộng thành quyền của dân tộc. Đây là một suy luận hết sức quan trọng vì đối với những nước thuộc địa như nước ta lúc bấy giờ thì trước khi nói đến quyền của con người phải đòi lấy quyền của dân tộc. Dân tộc có độc lập, nhân dân mới có tự do, hạnh phúc. Đó là đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.

- Lập luận vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho bản TN.

3.2. Phần 2 (từ “Thế mà… phải được độc lập”) : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

a. Bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ xác đáng, những bằng chứng không ai có thể chối cãi để bác bỏ những luận điệu của thực dân Pháp muốn "hợp pháp hóa" việc chiếm lại nước ta :

+ Pháp kể công "khai hóa", bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội diệt chủng của chúng. Tội nặng nhất là gây ra nạn đói năm giết chết hơn hai triệu đồng bào ta từ Bắc Kì đến Quảng Trị (dẫn chứng)

+ Pháp kể công "bảo hộ", bản tuyên ngôn kể tội hai lần chúng dâng Đông Dương cho Nhật (dẫn chứng)

+ Pháp nhân danh Đồng minh đã chiến thắng phát xít, giành lại Đông Dương, bản tuyên ngôn kể tội chúng phản bội đồng minh: đầu hàng Nhật, khủng bố Cách mạng Việt Nam đánh Nhật cứu nước. Bản tuyên ngôn nói rõ: Dân tộc Việt Nam giành lại độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.

Bằng giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục, đoạn văn đã tố cáo hùng hồn và đanh thép tội ác của thực dân Pháp. Bằng phương pháp liệt kê, tác giả đã nêu lên hàng loạt tội ác của thực dân Pháp trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và ngoại giao.

b. Từ những cứ liệu lịch sử hiển nhiên đó, bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến những thông điệp quan trọng:

+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước VN.

+ Kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết chống lại âm mưu của thực dân Pháp

+ Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của dân tộc VN.

3.3. Phần 3 (còn lại): Lời tuyên ngôn và tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập của toàn dân tộc

- Tuyên bố về quyền độc lập của dân tộc

- Tuyên bố về sự thật là nước Việt Nam đã giành được độc lập.

- Tuyên bố về ý chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc bằng mọi giá. Những lời tuyên ngôn này được trình bày logic, chặt chẽ, cái trước là tiền đề của cái sau.

4. Nghệ thuật

- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục

- Ngôn ngữ chính xác, trong sáng, gợi cảm.

- Giọng điệu linh hoạt.

5. Chủ đề

Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới quyền được tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, nền độc lập, tự do mà nhân dân ta vừa giành được và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của toàn dân tộc. 

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

(Nguyễn Minh Châu)

I. KIẾN THỨC CHUNG

1.. Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930 -1989):

Là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ông là ngòi bút có khuynh hướng lãng mạn, sử thi. Ở thời kì sau, ngòi bút của ông chuyển sang đề tài thế sự, quan tâm tới đời sống của con người trong đời thường với những vấn đề về đạo đức, về triết lí nhân sinh.

Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970), tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) , tiểu thuyết Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) ,Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quế, Khách ở quê ra, Bức tranh. Năm 2000, Nguyễn Minh Châu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

2. Văn bản đoạn trích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (8 - 1983), rút từ tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (1-987).

Thể loại - phương thức biểu đạt:

Truyện ngắn; tự sự - (miêu tả - biểu cảm); ngôi kể thứ nhất, đặt vào nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng - người chứng kiến và tham gia vào câu chuyện.

Bố cục đoạn trích:

+ Phùng chớp được cảnh đẹp trời cho: chiếc thuyền lưới vó đang từ ngoài biển chèo thẳng vào bờ trong buổi sớm mai sương mù.

+ Ngay, sau đó Phùng lại chứng kiến cảnh bạo hành dã man của gia đình thuyền chài.

+ Câu chuyện với người đàn bà thuyền chài ở toà án huyện.

+ Đoạn kết: suy nghĩ của Phùng về bức ảnh lịch và người đàn bà vùng biển. I

-> Cũng có thể chia gọn 2 đoạn như SGV: 1. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.

2. Câu chuyện của người đàn bà vùng biển.

Nhưng cách chia này không thật rành mạch về ý. Vì câu chuyện của người đàn bà đã bắt đầu từ phát hiện thứ hai (đoạn 1).

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1.. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.

a. Phát hiện thứ nhất: Bức danh hoạ mực Tàu thời cổ.

Đoạn văn : Lúc bấy giờ... mang lại.

Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền Trung (Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục vụ cho chủ đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc sống đời thường, người nghệ sĩ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài. Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương: ” mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ”. Với Phùng đây là khoảnh khắc kì diệu trong đời cầm máy của mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con người ngư phủ, từ đường nét, màu sắc, ánh sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp. Trong con mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.

Cảnh đẹp bất ngờ xuất hiện trước mắt Phùng như một phần thưởng cao quý trời cho để thưởng cho người nghệ sĩ kiên trì dày công mai phục (như Nguyễn Tuân mấy chục năm trước đã hơn hai tuần phục cảnh mặt trời lên trên biển Cô Tô).

Ngòi bút đặc tả vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng đúng như mong ước trong tưởng tượng của nghệ sĩ về cảnh thuyền và biển trong sương mù nhạt nhoà. Vẻ đẹp giản dị và toàn bích của thiên nhiên mà người nghệ sĩ may mắn chớp được khoảnh khắc hiếm hoi.

Cảm xúc của người nghệ sĩ sáng tạo: bối rối, trong tim như có cái gì bóp thắt vào, cảm thấy niềm vui của sự khám phá chân lí toàn thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Tất nhiên là anh vội, không tiếc phim, bấm máy liên tục để vĩnh cửu hoá cảnh tuyệt vời

Ý nghĩa chi tiết: với nhà nghệ sĩ chân chính, không niềm vui nào bằng khám phá được vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên nhiên và cuộc sống. Nhưng để có được khoảnh khắc hiếm hoi ấy, phải kiên trì, phải vượt khó, phải ham mê, hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hòa hợp kỳ lạ giữa cảnh vật và con người đơn giản và hoàn mỹ.

b. Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo hành gia đình người đàn bà mặt rỗ.

Nhưng đó mới là vẻ đẹp bên ngoài của bức tranh chiếc thuyền ngoài xa. Tình cờ, Phùng lại phát hiện được một bức tranh sinh hoạt của con người xảy ra bên bờ biển ấy.

Đoạn từ: Ngay lúc ấy... thuyền lưới vó đã biến mất.

Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thật bất ngờ, lí thú nhưng phát hiện thứ hai ngay sau đó còn bất ngờ hơn nhưng chẳng lí thú chút nào mà khó hiểu và buồn đau, căm giận. Phát hiện bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Từ trong con thuyền đẹp như mơ ấy bước ra hai người đàn ông và đàn bà quái lạ.

Và tiếp theo là cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô tình trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của nhà nghệ sĩ - người lính chiến năm xưa.

Gã đàn ông thô lỗ, hung bạo, vũ phu, cục súc, với sức khỏe như gấu, hình dáng cổ quái, hắn trút sự căm giận điên cuồng vào việc đánh đập người vợ của mình bằng chiếc thắt lưng to bận như đánh kẻ thù, hàm răng nghiên ken két, vừa đánh vừa chửi, nguyền rủa rên rỉ, đau đớn. Chúng ta đồng cảm với sự ngạc nhiên cao độ và hành động cứu ứng kịp thời của nghệ sĩ Phùng, khi “anh há mồm ra nhìn rồi vứt máy ảnh lao tới định cứu người đàn bà nạn nhân của sự bạo hành man rợ”.

Nhưng trong cách tả của tác giả đã hé ra phần nào cái nguyên nhân sâu xa khiến gã đàn ông nọ trở nên thô bạo tàn ác đến thế với vợ mình: gã giận dữ và đau đớn vì bế tắc, hay vì một cái gì đó mà chính gã cũng không hiểu.

Còn người đàn bà, hành động và cử chỉ của mụ càng làm Phùng ngạc nhiên, khó hiểu hơn, khi mụ nhẫn nhịn chịu đánh, lại chắp tay vái lạy con trai vừa cứu mẹ bằng cách giật cái thắt lưng trong tay bố và chịu hai cái tát của người bố hung bạo.

Người mẹ sợ con, xin con đừng chống lại cha mình? Người mẹ sợ con bị cha đánh chết? Người mẹ quá thương con, lo cho con, sợ con phạm tội với người đã sinh ra mình? Tất cả đều mới chỉ là ức đoán, chưa có căn cứ làm sáng tỏ nhưng đã hiện ra trước mắt người đọc một chú bé vùng biển gan góc, lầm lì, dũng cảm, hết lòng thương mẹ.

Và đó là là mặt trái của bức ảnh mơ màng, lãng mạn đẹp tuyệt vời kia. Nhưng đó cũng mới là một phần bên ngoài của sự thật. Tình cờ, lại tình cờ mà may mắn, Phùng có dịp chứng kiến và tham gia vào câu chuyện để tự mình khám phá thêm chiều sâu và bản chất của sự thật đau buồn mà dữ dội ấy. Là người lính cũ, Phùng không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà chài kia lại chính là thứ thuốc rửa quái đản lộn trái những thước phim anh đã dày công mới chụp được.

Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống. Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.

2. Câu chuyện ở tòa án huyện.

+ Cuộc gặp gỡ giữa vị chánh án và người đàn bà làng chài

Tác giả cố ý không đặt tên cho nhân vật của mình để tỏ rằng mụ cũng là một trong bao nhiêu người phụ nữ vùng biển khác mà thôi. Đây không phải là một số phận, một cá tính quá cá biệt. Người đàn bà trung niên, lam lũ, vất vả, thầm lặng, tự nguyện chịu đựng đòn đánh của chồng như một lẽ đương nhiên, tất yếu đến vồ lí với người ngoài nhưng lại vì lí do thật đơn giản: bà cần sức mạnh của một người đàn ông trong cuộc mưu sinh và tồn tại gia đình đánh cá trên biển. Bà sẵn sàng chịu đựng tất cả vì đàn con đông đúc, bà chỉ mong chúng được ăn no, khoẻ mạnh và lớn lên. Vì thế bà cay đắng và tự nguyện để lão chồng ba ngày, năm ngày hai trận đòn nhục nhã, chỉ để hắn không bỏ đi, không rời bỏ gia đình. Đó là sự cam chịu nhẫn nhục đầy hi sinh, đáng cảm thông, chia sẻ. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh cao cả.

Đó là câu chuyện về sự thật cuộc đời, giúp Đẩu và Phùng hiểu nguyên nhân thật sự những điều tưởng chừng như vô lí vừa xảy ra. Và họ - một đại diện cho công lí, một đại diện cho lương tâm nghệ sĩ mới nhận rõ điều này: Không thể dễ dãi, đơn giản khi nhìn nhận, đánh giá mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống. 

Với tư cách là một chánh án toà án nhân dân huyện, đại diện cho chính quyền và pháp luật, một cựu binh thời đánh Đẩu có quan điểm dứt khoát, rõ ràng, bênh vực nạn nhân, giúp chị tìm con đường giải thoát, răn đe và trừng trị kẻ ác phạm tội.

Quan điểm đó là đúng, nhưng trong trường hợp cụ thể này lại tỏ ra cực đoan và rõ ràng chưa được người bị hại tán thành chứ đừng nói gì đến tâm phục khẩu phục. Khi nghe tâm sự thật lòng của người đàn bà, khi hiểu ra vấn đề, phức tạp hơn anh tưởng, nhiều, Đẩu thấy hiện tại chỉ có cách theo cách của nạn nhân, vẫn để họ sống với nhau, và gọi lão chồng lên huyện răn đe nghiêm khắc. Nhưng với gã đàn ông thô bạo, cục súc, đánh vợ như trò giải trí ấy, mấy lời thuyết giáo của vị chánh án oai nghiêm nhưng xa vời kia liệu có phải như nước đổ lá khoai? Đó là cái khó của vị quan toà chân chính thời nay.

LÃO ĐÀN ÔNG:

Cuộc sống nghèo đói, quanh năm vất vả đã biến chàng trai biển lành nhưng cục thành gã đằn ông vũ phu, lão chồng độc ác, coi vợ như cái bao tải, để trút nỗi bực dọc, đau khổ, buồn phiền của riêng mình. Lạ, lão lại không nghiện rượu như nhiều người đàn ông khác! Tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn lòng ích kỉ, bản thân lão vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân gây nên nỗi khổ cho vợ con mình, gia đình mình. Đối xử với loại người này, cần phải kết hợp nhiều biện pháp lí tình, cương nhu, tác động từ nhiều phía mới hi vọng cải tạo y từ gốc để trở lại là người chồng, người cha tốt như xưa.

NHÂN VẬT THẰNG PHÁC

Trong những gia đình như thế này, đáng thương nhất là những đứa con. Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: làm thế nào để trọn đạo hiếu? đứng về phía ai?

Thương mẹ nhưng không thể ngăn được bố, càng không thể chống lại bố... Với tính cách giống cha như lột, phản ứng của thằng Phác là dữ dội, quyết liệt kiểu trẻ con xốc nổi, nghĩ sao làm vậy hết mình. Nó hết sức xông thẳng .vào người cha hung bạo, giật được cái thắt lưng từ tay gã, nghiến răng chịu hai cái tát nảy lửa. Và lần sau còn thủ sẵn một con dao găm để đâm bố, cứu mẹ. Tình thương mẹ vô hạn đã khiến đứa con trai quyết lòng bảo vệ mẹ. Trong mắt thằng Phác, bố nó đâu còn là một người cha mà chỉ là lão già độc ác, lúc nào cũng chỉ muốn hành hạ mẹ nó.

Chị thằng Phác là đứa con gái can đảm mà biết nghĩ hơn nhiều. Nó vật nhau với em để tước con dao găm, tránh cho em một việc làm hết sức dại dột, Nó chăm sóc mẹ khi lên toà án huyện... Nguyễn Minh Châu không hướng trọng tâm vào các nhân vật trẻ con, nhưng hai đứa bé này vẫn để lại trong người đọc không chỉ lòng thương cảm mà còn mến yêu và xúc động.

NGHỆ SĨ PHÙNG

Là nhân vật, là người kể chuyện xưng tôi, là người chứng kiến trực tiếp và trực tiếp tham gia vào câu chuyện, nhân vật Phùng là nơi gửi gắm quan điểm và suy tư của chính tác giả. Đó là một nghệ sĩ có tài, say mê nghề nghiệp vẫn còn mang trong mình dòng máu người lính chiến sôi nổi, chân thành. Qua chuyến đi săn tìm ảnh lịch theo yêu cầu của vị trưởng phòng tinh khôn và khó tính, anh đã đạt kết quả mỹ mãn về chuyên môn, nhưng sâu sắc hơn anh hiểu

biết thêm được bao nhiêu sự thật cay đắng, nghịch lí của cuộc sống đời thường. Hơn nữa anh còn thức nhận sâu sắc hơn một điều, rằng, trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp hãy là người biết yêu ghét, buồn vui, đồng cảm chia sẻ và đấu tranh bằng hành động chống lại cái ác, cái xấu để có cuộc sống xứng đáng với con người. Và cuộc sống bao giờ cũng cần được khám phá, lí giải với tất cả nhận thức và tình cảm, cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới mong hiểu thấu diện mạo muôn màu và bản chất thực của nó.

3. Người đàn bà làng chài

+ Về tên gọi : Cũng giống như nhân vật người vợ nhặt ( truyện ngắn Vợ Nhặt- Kim Lân ), người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh châu cũng không được đặt tên. Nhân vật được gọi bằng những cái tên phiếm chỉ : Người đàn bà, chị ta, mụ ,...Đây là nhân vật tiêu biểu cho những người đàn bà vô danh ở những vùng biển khác nhau nhưng cùng chung số phận đau thương.

+Ngoại hình: xấu xí , thô kệch, mặt rỗ vì hồi nhỏ bị đậu mùa, mụ trạc ngoài 40, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, quần áo rách rưới bạc phếch, thân người ướt sũng ...

-Hoàn cảnh gia đình, số phận

+Nghèo khổ lam lũ, đông con, gia đình làm nghề chài lưới, sống chen chúc trên cái thuyền chật hẹp.

+ Mụ xấu xí từ nhỏ, lại bị rỗ mặt

+Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả

+Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.

- Phẩm chất, tính cách:

+ Nhẫn nhục, chịu đựng: Bị chồng trút dây thắt lưng quật tới tấp , chị vẫn nhẫn

nhịn, không hề khóc lóc kêu van, không chạy trốn, không tìm cách chống trả. Chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Khi được Phùng và Đẩu góp ý, đề nghị giúp đỡ thì : "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó" Chị cam chịu đến tội nghiệp.

Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị ta lúng túng, rụt rè tìm một góc tường để ngồi. Chị thấy sợ hãi Khi đến một không gian lạ và cảm thấy mình thật nhỏ bé giữa chốn công đường. Cái thế ngồi của chị như cố thu mình lại để tự vệ, cho dù đã được Đẩu, Phùng chia sẻ và cảm thông.

Nguyên nhân nỗi cam chịu : Vì con cái, vì hạnh phúc gia đình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông.

+Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Sau khi biết hành động vũ phu của chồng mình đã bị đứa con trai và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người đàn bà đã ứa ra. Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và chịu đựng. Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót cho tình cảnh trớ trêu của mình, kể cả thằng Phác, đứa con trai mà chị quý nhất. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng người đàn bà ấy không hề để ý, không hề bận tâm. Đúng là sự nhẫn nhục của một người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời.

+ Yêu thương con tha thiết(" phải sống cho con chứ không thể sống cho mình") Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con " Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được".

Vì thương con, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố,....Chị không muốn các con nhìn thấy cảnh bạo hành gia đình. Và niềm hạnh phúc lớn nhất của chị là nhìn những đứa con chúng được ăn no,...

=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa .

+ Người đàn bà vị tha, lạc quan :

Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu niềm hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc đời bình dị ( "...nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hòa thuận") .Chị tự động viên mình, và sống vì các con. Đặc biệt, chị không hề hận chồng mặc dù thường xuyên bị chồng đánh đập chửi rủa, trái lại, chị còn biết ơn lão. Chỉ Phùng, Đẩu, và người đọc cảm thấy ngột ngạt trước cuộc sống quá ư khổ cực của chị, còn bản thân chị thì thấy đó là sự việc rất đỗi bình thường. Chị lí giải nguyên nhân dẫn đến tính khí hung bạo của chồng và cảm thông, tha thứ cho lão.Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng

+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời

Ý thức được thiên chức của người phụ nữ ("Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn"). Chị lí giải nguyên nhân dẫn tới nỗi khổ của gia đình mình, lí giải vì sao mình không thể, và không muốn li hôn. Câu chuyện của chị đã khiến Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sau khi nghe câu chuyện của chị, Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ , và rút ra bài học sâu sắc về cách nhìn đời, nhìn người. Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống,không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống.

4. Nghệ thuật

(Cốt truyện đơn giản, tình huống bất ngờ, dẫn dắt khéo léo, càng về sau càng bất ngờ và hấp dẫn: bất ngờ khi thấy cảnh lạ, đẹp —» bất ngờ chứng kiến chuyện lạ nghịch lí —> bất ngờ hiểu cái lí buồn của nghịch lí; Xây dựng nhân vật chọn lấy vài nét ngoại hình lạ, ngôn ngữ và hành động phù hợp tính cách, nhưng vẫn gây sự khó hiểu và bất ngờ (người đàn bà, thằng Phác)...)

Lối kết cấu vòng tròn: Mở đầu là đi tìm ảnh, kết là nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, nhấn mạnh tính triết lí của truyện.

ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM

(trích Trường ca Mặt đường khát vọng- Nguyễn Khoa Điềm)

I. KIẾN THỨC CHUNG

1. Tác giả

- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong khói lửa kháng chiến chống Mỹ

- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư người trí thức tham gia chiến đấu.

2.Đoạn trích “Đất Nước” 3.Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ

“Đất Nước” thuộc phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng – tác phẩm được hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.

5. Nội dung

5.1. Phần 1: Cảm nhận về Đất Nước

- Đất nước thật dung dị, đời thường: Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn, những dãy tre làng, “bới” tóc của mẹ, gừng cay, muối mặn, cái kèo, cái cột, hạt gạo...

- Đất nước “đã có” từ thuở rất xa xưa và rất gần gũi thân thương đối với mỗi con người.

- Nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hoá dân gian với hình thức thơ trữ tình- chính luận.

- Về không gian địa lý :

+ Đất nước là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người ( nơi anh đến trường... nơi em tắm).

+ Đất Nước tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa : “Đất Nước là nơi ta hò hẹn. Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.

+ Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao thế hệ “Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại…”).

- Về thời gian lịch sử : Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.

+ Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước).

+ Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại (“Trong anh và em hôm nay. Đều có một phần Đất Nước”)

+ Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai (“Mai này con ta lớn lên. Con sẽ mang Đất Nước đi xa. Đến những tháng ngày mơ mộng”).

- Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ về trách nhiệm của mọi người :

+ Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người, vì thế mọi người phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở.

+ Cần biết gắn bó biết san sẻ : sự sống của mỗi con người không chỉ là của riêng cá nhân mà còn thuộc về Đất nước.

+ Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ, lời tự nhủ với chính bản thân đầy chân thành tha thiết.

5.2. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” trong phần 2 của đoạn trích

- Về địa lý : nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc chí Nam. Tất cả các địa danh được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử. Nói cách khác, chính những huyền thoại, huyền tích và sự thật lịch sử về nhân dân đã làm nên tên tuổi của các địa danh ấy, biến chúng thành danh thắng, thành di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến :

+ những người vợ nhớ chồng – núi Vọng Phu;

+ cặp vợ chồng yêu nhau – hòn Trống Mái;

+ người học trò nghèo – núi Bút, non Nghiên;

+ Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…

Trong con mắt của nhà thơ, mỗi danh thắng không chỉ là một nét vẽ tô điểm vào bức “tranh họa đồ” Đất Nước mà còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân trong mấy nghìn năm lịch sử : sự thủy chung; tình nghĩa vợ chồng; tinh thần yêu nước; ý thức hướng về tổ tông, nguồn cội; tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó vươn lên; tinh thần xả thân vì cộng đồng, dân tộc… Tựu chung lại, đúng như nhà thơ đã khái quát : “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi. Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.

- Về lịch sử : khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến “lớp lớp” những con người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Không ai khác mà chính họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Đất Nước: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, bản sắc văn hóa các vùng miền… Cũng chính họ “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” tạo dựng chủ quyền, đắp nền xây móng cho ngôi nhà Đất Nước để các thế hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát triển.

- Về văn hóa : khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước: thật say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh cho đến ngày toàn thắng.

6. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do.

- Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi

- Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình, biến đổi linh hoạt

- Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.

7. Chủ đề

Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình- chính trị, đoạn trích Đất Nước đã quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn và vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” Nhận xét về cách sử dụng chất liệu văn hoá dân gian của tác giả (ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, phong tục…), từ đó tìm hiểu những đóng góp riêng của nhà thơ về nghệ thuật biểu đạt.

- Chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng rất đa dạng và sáng tạo. Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, (miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột. hạt gạo xay, giã, dần sàng, hòn than, con cúi…); Có ca dao, dân ca, tục ngữ, có truyền thuyết Hùng Vương, các truyện cổ tích từ xa xưa. Cách vận dụng của tác giả là thường là chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết. cổ tích, trừ trường hợp câu dân ca Bình- Trị- Thiên được lấy lại nguyên vẹn “Con chim phượng hoàng … biển khơi”.

- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng cho đoạn trích: vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, vừa bay bổng, mơ mộng. 

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

(Nguyễn Tuân)

I. KIẾN THỨC CHUNG

1. Hoàn cảnh sáng tác

+ Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.

+ Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.

2. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tượng con sông Đà

* Vẻ hung bạo, dữ dằn :

- Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu.

- Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…

- Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào.

- Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau

- Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập nhiều phòng tuyến… sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.

* Vẻ trữ tình, thơ mộng :

- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều.

- Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.

- “Nhìn sông Đà như một cố nhân”, nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.

- Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đó quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.

3. Hình tượng người lái đò

- Là người tinh thạo trong nghề nghiệp

+ Ông lão nắm vững quy luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy luật của thần sông thần đá”.

+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “ nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.

- Là người trí dũng tuyệt vời:Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chủ huy dày dạn kinh nghiệm:

+ Ở trùng vây thứ nhất:thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng song hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm song trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.

+ Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ 2 này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”.

Người lái đò tả xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.

+ Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3.

- Là người tài hoa nghệ sĩ:

+ Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái linh hoạt, khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, “Vút, vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn.

+ Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…”.

è Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn.

Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đó tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà ngay trong quần chúng lao động bình thường xung quanh ta. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.

- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần nữa cho thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh…

4. Nghệ thuật

- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác giả.

- Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.

- Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả vẻ đẹp trữ tình rất nên thơ của con sông.

5. Chủ đề:

Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động - chất vàng mười của cuộc sống.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG

(Hoàng Phủ Ngọc Tường)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường

- Sinh năm 1937 tại t.p Huế

- Là một người con của xứ Huế.

- Là một trong những nhà văn chuyên về bút ký.

- Văn phong: “Nét đặc sắc … tài hoa” (tr197)

- Tác phẩm tiêu biểu: (Sgk)

tong-on-full-dan-y-chi-tiet-phan-tich-cac-tac-pham-van-hoc-12-q

2. Tác phẩm:

- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Là bài bút kí đặc sắc, viết tại Huế (1981), in trong tập sách cùng tên

- Kết cấu: Tác phẩm gồm ba phần

+ Phần 1: Sông Hương ở thượng nguồn

+ Phần 2: Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế

+ Phần 3: Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.

- Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế.

II. Phân tích:

1: Ý nghĩa nhan đề “ Ai đã đặt tên cho dòng sông”

- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Câu hỏi tu từ đặt ra “Với trời, với đất” đưa nhà văn và độc giả về với hành trình lịch sử tìm về cội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó dòng sông Hương hiện ra trên nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết thúc tuỳ bút là một huyền thoại rất đẹp, bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư: “ Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông, để làn nước thơm tho mãi”. Tác giả gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá lịch sử.

- Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của tác giả giàu sức gợi cảm thấm đẫm chất thơ.Qua đó tác giả ca ngợi tính chất sông Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn hoá Huế của dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện lòng yêu mến say mê cảnh vật, văn hoá đất nước. Hình ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu chất trí tuệ, chất văn hoá và ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, tinh tế.

2. Chứng minh vẻ đẹp của sông Hương qua các góc nhìn khác nhau :

Mở bài: - Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm bút kí kiệt xuất của Hoàng Phủ Ngọc Tường

-Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp, chất thơ từ cảnh sắc thiên nhiên của sông Hương 

Thân bài:

* Từ thượng nguồn:

- Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:

+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già; Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm….

+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại.

+ Rừng già đã hun đúc cho nó 1 bản tính gan dạ, 1 tâm hồn tự do, phóng khoáng.

=> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.

- Khi ra khỏi rừng già:

+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…

+ Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.

=> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông. Tiểu kết:

Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú, gợi cảm, đầy sức hấp dẫn.

* Về châu thổ:

- Sông Hương trên đường tìm đến Huế:

+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức.

+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo, đa dạng trong nhiều thời gian và không gian khác nhau (dẫn chứng...). Vẻ đẹp của Huế như trở thành vẻ đẹp của sông Hương.

=> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như 1 cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu của nó.

- Sông Hương gặp gỡ Huế:

+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ... > Vẻ e lệ, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra.

+ Các nhánh sông tỏa đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông Hương và Huế hoà lẫn vào nhau.

+ Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thật chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh như niềm say mê, như khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.

+ Liên tưởng với những dòng sông khác > Niềm tự hào của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê hương.

=> Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như cuộc hội ngộ của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.

- Sông Hương tạm biệt Huế để ra đi:

+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…

+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối.

=> Quyến luyến, ngập ngừng, bịn rịn không nỡ rời xa.

Tiểu kết:

- Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống. Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình - sông Hương - đang say đắm trong tình yêu.

- Nhà văn: Tâm hồn đa cảm, lãng mạn; cách viết tài hoa. Vẻ đẹp văn hoá của dòng sông:

- Dòng sông âm nhạc:

+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.

+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.

+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.

- Dòng sông thi ca:

+ Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà.

+ Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.

+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.

+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu

=> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các nghệ sĩ.

- Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.

+ Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.

+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như 1 nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: rất dịu dàng và rất trầm tư…

Tiểu kết:

Với kiến thức uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lí giải vẻ đẹp văn hóa phong phú của sông Hương, vẻ đẹp gắn liền với xứ Huế, với con người Huế.

* Sông Hương với lịch sử hào hùng:

- Là 1 dòng sông anh hùng:

•Từ xa xưa: là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước

• Thời trung đại:bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc

• Thời chống Pháp: sống hết lịch sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa

• Đi vào thời đại cách mạng tháng 8 với những chiến công rung chuyển.

• Thời chống Mĩ:

- Sông Hương cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát. Tiểu kết:

- Vừa là bản tình ca dịu dàng, Sông Hương cũng là một bản hùng ca gắn liền với lịch sử oanh liệt của dân tộc.

Kết bài:

- Bài kí lột tả được vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Hương, cũng là của xứ

Huế, con người Huế.

-Tình yêu thiết tha, say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi đây.

- Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá, địa lí, lịch sử ; giàu chất trữ tình lãng mạn.

3. Chất trí tuệ và chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

* Chất trí tuệ:

Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng những am hiểu trong ca dao Huế vào bút kí của mình.

“ Bốn bề núi phủ mây phong

Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”

cho đến câu thơ của Tản Đà “ Dòng sông trắng- lá cây xanh”, thơ của Tố Hữu, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều.

Những hiểu biết về phương diện địa lí để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ thượng nguồn, đến đồng bằng, cho đến cố đô Huế.

Những hiểu biết về lịch sử văn hoá.

Sự liên tưởng so sánh với các công trình kiến trúc của Hi Lạp, La Mã, nền văn minh Châu Âu.

Những tác phẩm văn học Châu Âu, những lời nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài.

* Chất thơ:

- Cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị.

“ Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Và “ giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cách cung rất nhẹ sang đến Cồn Hiến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Hay “ Sông Hương là vậy, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.

Những câu văn có sự mài dũa, đẽo gọt kĩ càng, nhẹ nhàng như một câu thơ.

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH

ĐÌNH (Nguyễn Thi)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Vài nét về tác gác Nguyễn Thi:

Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ. Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung "rất Nguyễn Thi". Đó là:Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất cao- những con người dường như sinh ra để đánh giặc ;Tính chất Nam bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình nghĩa. Tác phẩm tiêu biểu của ông là : Người mẹ cầm súng , Những đứa con trong gia đình,…

2. Vài nét về tác phẩm

Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác với tư cách là một nhà văn- chiến sĩ ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng năm 1966. Sau được in trong Truyện và kí NXB Văn học Giải phóng, 1978. Là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi.

3. Tóm tắt

Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ - Ngụy: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với những đe dọa, hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm, và một người chị nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống gia đình Việt đều được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ của gia đình. Việt và Chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc. Việt nhỏ tuổi, đồng đội gọi thân mật là câu Tư.

Anh rất gắn bó với đơn vị . Trong trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của địch nhưng bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh trở về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh,... Tánh cùng tiểu đội đi suốt ba ngày mới tìm được Việt trong một lùm cây rậm và suýt nữa thì bị ăn đạn của “câu Tư” . Việt được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến kể lại chiến công của mình. Việt nhớ chị chiến, muốn viết thư nhưng không biết viết sao vì tự thấy chưa thấm gì với thành tích của đơn vị và những ước mong của má. Chủ đề : Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tình huống truyện

Câu chuyện gia đình của anh giải phóng Việt rơi vào tình huống đặc biệt: bị thương nặng trong một trận đánh, phải nằm lại giữa chiến trường: Nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại. Truyện kể theo dòng nội tâm nhân vật: khi đứt (ngất đi) khi nối (tỉnh lại). Cách trần thuật theo dòng ý thức nhân vật.

2. Cách trần thuật

Những đứa con trong gia đình: kể theo phương thức: theo ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình nhưng điểm nhìn, lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật > lời nửa trực tiếp.

3. Hình ảnh gia đình

+ Ba Má, Chú Năm

Người mẹ: (đọc toàn bộ truyện để có sự phân tích khái quát)

- Qua kí ức đứa con: rất phụ nữ, vị tha, nhân hậu nhưng không mềm yếu.

- Có cuộc sống cơ cực, lam lũ, nhọc nhằn, khổ đau (bố chồng và chồng bị giặc giết, một thân một mình nuôi ba đứa con nhỏ)

- Tính cách phi thường trong những biểu hiện tình cảm bình thường: o Với chồng: đi đòi đầu chồng > gan góc.

o Với con:

Thương con hết mực nhưng rất nghiêm khắc (trong hồi ức chập chờn của Chiến, Má hiện lên đầu tiên: ghé lại, xoa đầu, đánh thức, lấy cơm cho Việt ăn…)

Luôn luôn nhắc nhở con về truyền thống gia đình và mối thù dân tộc.

Hun đúc, nuôi dưỡng ở con ý chí chiến đấu không mệt mỏi.

Cả Chiến và Việt luôn tạc dạ lời dặn của mẹ > hình bóng của người mẹ đầy yêu thương và có sức mạnh cổ vũ mãnh liệt với hai chị em. Má in dấu trong mỗi câu nói, mỗi hành động của từng đứa con.

+ Chú Năm:

- Khắc họa qua giọng hò:

“Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội” > so sánh tiếng hò như “một hiệu lệnh”, “một lời thề dữ dội” > Tiếng hò hút tất cả tâm lực của Chú Năm > vừa nhắc nhớ về truyền thống, thắp lên niềm tự hào về quê hương khó nghèo nhưng giàu có và bất khuất, vừa như lời hiệu triệu, một tiếng trống quân thúc giục động viên thanh niên ra trận.

- Giữ cuốn sổ gia đình, ghi từng ngày thay cho Việt và Chiến.

Người giữ lửa yêu nước truyền cho các thế hệ.

Những con người có chung phẩm chất: yêu nước, gắn bó với quê hương tha thiết, căm thù giặc, gan góc, kiên cường, chiến đấu hết mình vì Tổ quốc.

+ Cuốn sổ gia đình

- Chi chi tiết những việc xảy ra với gia đình > bằng chứng sống về tội ác của kẻ thù, lưu giữ, nuôi dưỡng truyền thống gia đình.

- Trao cho Việt và Chiến > hành động ý nghĩa: trao cho thế hệ con cháu trách nhiệm giữ gìn truyền thống.

- Cuốn sổ như một con sông > Con sông tích tụ nước từ bao đời, luôn luôn chảy (như các thế hệ tiếp nối nhau), đổ về biển rộng (hòa quyện vào truyền thống bất khuất của dân tộc, hướng tới tương lai tươi sáng) > dòng chảy truyền thống gia đình bền bỉ, liên tục và bất tử.

Nhận xét:

• Hình ảnh gia đình, gắn với nhan đề tác phẩm, là môi trường khắc họa hình ảnh những đứa con.

• Tiêu biểu cho hình ảnh những gia đình miền Nam giàu truyền thống yêu nước trong kháng chiến chống Mĩ.

d. Hình ảnh những đứa con

+ Chiến:

- Tính cách trẻ con:

• Tranh đi bộ đội với em

• Tranh bắt ếch.

- Mang những phẩm chất của Má

• Đảm đang, tháo vát: Thu xếp nhà cửa gọn gàng trước khi đi.

• Tiềm ẩn bản năng chăm lo của một người phụ nữ: thương và lo cho em, nghĩ ngợi việc nhà…

• Bộc trực, quyết liệt, gan góc, không đội trời chung với kẻ thù: “Nếu giặc còn thì tao mất”.

Chiến là hình ảnh tiếp nối của Má: 3 lần được so sánh với má (nói in như má vậy, giống hệt như má vậy, nói nghe in như má vậy) > sự tiếp nối truyền thống gia đình

>dòng chảy truyền thống dạt dào qua các thế hệ.

+ Việt:

- Tính cách trẻ con, hồn nhiên, vô tư:

• Tranh đi bộ đội, tranh bắt ếch với chị.

• Trong khi chị Chiến lo toan thu xếp việc gia đình thì Việt “lăn kềnh ra ván cười”, vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay” rồi ngủ quên lúc nào không biết

• Đi đánh giặc vẫn đeo ná thun.

• Không sợ giặc nhưng lại sợ ma.

- Yêu thương, gắn bó với gia đình

• Thương má:

o Hình dung về má qua hồi ức của Việt dịu dàng, tha thiết.

o Chuyển bàn thờ má: nhắn nhủ, tâm sự với má về quyết tâm trả thù.

• Thương chú Năm, thương chị: “Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ”

- Chiến sĩ giải phóng gan góc, quả cảm:

• Diệt được xe bọc thép của giặc.

• Bị thương nặng, lạc đồng đội, trong hồi ức đứt nối nhưng luôn thường trực nung nấu: tìm về với anh em, để tiếp tục đấu tranh.

- Căm thù giặc sâu sắc và quyết tâm chiến đấu đến cùng:

• Thể hiện sâu sắc qua chi tiết cảm động: chuyển bàn thờ mẹ cùng chị Chiến

• Đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về > lời nhắn nhủ, tâm tình cũng là lời thế, lời hứa với Má.

• Mối thù thằng Mĩ thì có thể sờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai > mối thù trừu tượng tụ thành hình thành khối như máu bầm không tan.

Việt và Chiến vừa là khúc sau của dòng sông truyền thống gia đình vừa tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Nam chống Mĩ: bộc trực, thẳng thắn, gan dạ, dũng cảm, căm thù giặc sâu sắc, yêu nước tha thiết và quyết tâm chiến đấu vì độc lập.

4. Một vài nét đặc sắc về nghệ thuật

+ Xây dựng nhân vật: am hiểu và diễn tả chân xác, sâu sắc tâm lí nhân vật > cá thể hóa tính cách.

+ Ngôn ngữ: đậm chất Nam Bộ, từ cách xưng hô, cách dùng từ, cách nói… (Việt đá trái dừa rụng xuống mương cái đùng, việc thỏn mỏn, nói in như má…).

(Nguồn: Thạch Thi)

Xem thêm: Ánh lửa và sự phục sinh của nhân vật Mị trong "Vợ chồng A Phủ"

Ngày 29/6/2023 thi những môn gì?

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận