Ôn thi tốt nghiệp: Phân tích các tác phẩm trọng tâm 12 vận dụng lý luận văn học

Nếu bạn còn chưa biết cách vận dụng lý luận văn học thì hãy chú ý đến bài viết dưới đây nhé.

Đỗ Thu Nga
13:00 10/05/2024 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Vợ chồng A Phủ

Ai – ma – tốp đã từng nói “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.”, nhà văn phải là người đứng về lễ phải, đứng về phía ánh sáng đưa những kiếp người lầm than, bị cuộc sống đẩy vào bước đường cùng. Là một nhà văn với đầy lòng trắc ẩn, Tô Hoài đã dành tâm tư, tình cảm, lòng cảm thông sâu sắc với những số phận bất hạnh, chịu nhiều cay đắng trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Và có thể nói truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc là một trong số những sáng tác tiêu biểu của Tô Hoài dựng lại câu chuyện về sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị và A Phủ.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” vừa là bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí.” (M. Go-rơ-ki) có lẽ vì thế khi hướng ngòi bút của mình vào số phận bất hạnh của Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài luôn hướng đến sức sống mãnh liệt, tiềm tàng trong nhân vật chứ không hề bi lụy, thương đau.

phan-tich-cac-tac-pham-trong-tam-12-van-dung-ly-luan-van-hoc-0

Cô là hiện thân cho số phận và phẩm chất của những người dân lao động ở vùng Tây Bắc trước CMT8 không những thế Mị đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Mị xuất thân trong 1 gia đình nông dân nghèo đến độ khi bố mẹ Mị lấy nhau không đủ tiền cưới phải đến vay lãi nhà thống lí Pá Tra, mỗi năm phải trả lãi một nương ngô vậy mà cả đời vẫn chưa trả được hết nợ. Mị được biết đến là một cô gái xinh đẹp, tài hoa, cô chính là thứ tài sản quý giá nhất trong gia đình lúc bấy giờ, có lẽ chính vì điều đó đã dự báo trước số phận bất hạnh của Mị. Mị là cô gái có nhiều phẩm chất tốt đẹp, trước hết Mị là một người chịu thương chịu khó, giàu lòng tự trọng, khi thấy thống lí Pá Tra sang đặt vấn đề với bố xin Mị về làm con dâu gạt nợ nhưng Mị đã nói với bố: “ Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố, bố đừng bán con cho nhà giàu.” Từ câu nói đó cho ta thấy Mị có một sự hiểu biết sắc sảo và ý thức được sâu sắc về thân phận của mình. Hơn nữa, Mị còn là một cô gái trẻ trung, trong sáng, yêu đời: ‘ Những đêm tình mùa xuân, Mị rất thích đi chơi, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo và có một tình yêu đẹp.’ Mị còn là 1 cô gái có cá tính mạnh mẽ và quyết liệt: ‘ Sau khi bị A Sử lừa bắt về cúng trình ma, Mị đã không cam chịu có đến mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc. Một hôm cô còn trốn về nhà gặp bố, mang theo nắm lá ngón định tự tử. Cô thà chết chứ không chấp nhận cuộc sống của mình trong hiện tại”. Thế nhưng vì thương cha Mị không đành chết, cô chấp nhận quay trở về nhà thống lí, chấp nhận cuộc sống bèo bọt, đau khổ, đáng sợ hơn cả cái chết, tất cả là vì bố. Qua đó còn cho ta thấy Mị là một người con hiếu thảo và giàu lòng vị tha.

Không những thế, khi sống trong nhà thống lí Pá Tra Mị còn có số phận bất hạnh. Số phận bất hạnh của Mị được gợi ra ngay ở đoạn văn mở đầu tác phẩm: Mị được giới thiệu với hình ảnh của một cô gái ngồi quay sợi gai cạnh tàu ngựa. Cô làm việc quần quật, lúc nào cũng cúi mặt và mặt buồn rười rượi. Những chi tiết này gợi lên thân phận nhỏ nhoi lầm lũi đến tội nghiệp của Mị, dường như trong con người cô chất chứa những tâm sự uất ức mà không biết phải giãi bày cùng ai. Mị còn bi bóc lột sức lao động một cách thậm tệ, lúc nào Mị cũng chỉ nhớ đi nhớ lại việc làm giống nhau, tiếp nhau luôn bày ra trước mắt. Mị đã tưởng mình chỉ là con trâu, con ngựa suốt ngày phải làm việc quần quật mà vẫn không hết việc, thậm chí có lúc cô còn nghĩ mình không bằng con trâu con ngựa bởi: ‘ Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Cũng như bao người phụ nữ khác lúc bấy giờ, cô bị biến thành công cụ sản xuất, bị giai cấp thống trị vắt kiệt sinh lực. Không chỉ có vậy, cô còn bị chà đạp về nhân phẩm. Đầu tiên là bị hành hạ về thể xác, cô bị A Sử đánh đập một cách thậm tệ, vô cớ. Bị trói đứng vào cột nhà khi muốn đi chơi, bị đánh ngã ngay xuống cửa bếp khi đang ngồi hơ lửa. Tiếp đến cổ còn bị chà đạp về tinh thần, giai cấp thống trị đã cướp đoạt hết quyền tự do của Mị, chúng còn lợi dụng thần quyền để đầu độc, ức chế tinh thần của Mị khiến cho Mị phải cam chịu với ý nghĩ “Nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Có thể thấy sự áp bức của giai cấp thống trị đã làm cho tâm hồn Mị bị tê liệt hoàn toàn, căn buồng Mị nằm kín mít chỉ có một chiếc lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Chi tiết “ căn buồng’ Mị nằm gợi cho ta thấy Mị đã không còn ý thức về thời gian, về sự sống, cô buông xuôi mặc cho số phận tự cầm tù cuộc sống của chính mình, chi tiết “ căn buồng’ đó còn gợi cho người đọc thấy được sự chật hẹp về không gian, nó còn là biểu tượng cho ngực thất tinh thần, địa ngục trần gian giam cầm khát vọng sống khát vọng tự do của đời Mị. Nhà văn Tô Hoài còn nhắc đi nhắc lại nhiều lần chi tiết Mị không nói, càng ngày Mị càng không nói, cô lầm lũi như con rùa bơi trong xó cửa. A Sử có muốn làm gì cũng chẳng bao giờ Mị nói. Cô như một tảng đá một con vật tồn tại một cách cô độc và câm lặng. Tâm hồn của cô bị tê liệt đến mức khi mới bị bắt về nhà thống lí, Mị đã định ăn lá ngón tự tử nhưng rồi mấy năm qua Mị không còn tưởng tượng đến việc Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Tâm hồn của cô đã giá lạnh đến mức không còn nghĩ đến cái chết nữa nó như trơ ra, lì ra trước những đau khổ tủi cực của cuộc đời.

​ “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” Chính vì thế, nhà văn Tô Hoài đã để diễn biến tâm trạng của Mị thay đổi từ cam chịu sang đứng lên chống trả.

Trong đêm tình mùa xuân ấy, sức sống trong Mị đã lần nữa trỗi dậy mạnh mẽ trong cô. Hồng Ngài những ngày Tết đến, xuân về thật đẹp và đặc biệt là âm thanh tiếng sáo gọi bạn đi chơi trong đêm tình mùa xuân mới thật tuyệt biết bao. Tiếng sáo ấy là âm thanh đặc trưng nơi núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân, nó là tiếng gọi của tình yêu, tiếng gọi của hạnh phúc và để rồi, tiếng sáo dìu dặt, thiết tha ấy đã thấu rọi, xuyên qua tâm hồn vốn đã bị đóng băng bấy lâu nay ở Mị để đồng vọng với khát vọng tình yêu, khát vọng sống đang trỗi dậy trong cô. Mị đã có những hành động đầu tiên, báo hiệu cho sự trỗi dậy của sức sống trong Mị. Nếu như trước đây, Mị “sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa” thì hôm nay, Mị đã nhẩm thầm lời bài hát, “những lời thì thầm ấy như những lời thì thầm của mùa xuân”, nó chính là động lực, là nguồn cội để rồi cuộc đời Mị từ đây bước sang một trang mới. Rồi Mị uống rượu – “uống ừng ực từng bát” – dường như Mị muốn uống để quên đi hết bao sầu muộn, bao giận dữ, khổ đau trong những tháng ngày đã qua. Những ý niệm về thời gian dần dần sống lại trong Mị, cô nhớ về những kỉ niệm thời trẻ và sống với hiện tại của chính mình. “Mị thấy mình phơi phới trở lại, Mị vẫn còn trẻ lắm”, Mị muốn được đi chơi mùa xuân. Như vậy, đến đây, sức sống, khát khao sống trong Mị đã trỗi dậy nhưng rồi sự xuất hiện của A Sử đã buộc Mị không thể thực hiện khát khao đi chơi trong đêm tình mùa xuân của mình. A Sử trói đứng Mị, đánh đập Mị song A Sử chỉ trói được thể xác của Mị chứ không thể nào trói buộc được tâm hồn, khao khát của cô. Dường như, Mị đã quên mất việc mình bị trói đứng, quên đi nỗi đau về mặt thể xác để tâm hồn Mị vẫn hòa cùng với tiếng sáo của những cuộc chơi. Như vậy, sức sống mãnh liệt trong Mị đã trỗi dậy, vượt qua cả nỗi đau về mặt thể xác.

Những đêm mùa đông trên núi cao rất dài và buồn, Mị dậy thổi lửa hơ tay hơ lưng, nhìn thấy A Phủ trói đứng ở đó Mị vẫn thản nhiên đến vô cảm bởi lúc này tâm hồn cô vẫn đang ở trong trạng thái tê liệt, cô còn nghĩ: ‘ Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Chỉ đến khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Mị nhớ lại tình cảnh của mình đêm năm trước mà xót thương cho A Phủ. Trong cô đang đấu tranh tư tưởng và suy nghĩ: ‘Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia sẽ chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.Ta là thân đàn bà,nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…” cuối cùng cô đã đi đến quyết định, cô có thể chấp nhận hy sinh vì người khác : ‘…. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây…” Hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ của Mị là một hành động mạnh mẽ, táo báo cho ta thấy sức sống tâm hồn tiềm tàng mãnh liệt trong cô. Khi A Phủ chạy đi rồi, Mị đứng lặng trong bóng tối vừa lo sợ hụt hẫng lại vừa như sực tỉnh, cô đã ý thức được số phận bất hạnh và cơ hội hiếm có của đời mình. Mị đã vụt chạy ra băng đi gọi với theo A Phủ “ A Phủ cho tôi đi, ở đây thì chết mất”. Qua đó cho ta thấy hành động mạnh mẽ, tuyệt đẹp này đã khẳng định được khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng trong tâm hồn Mị. Hành động ấy của Mị đã chứng minh quá trình hồi sinh của Mị, Mị đã trở lại là chính mình với một khát vọng sống mãnh liệt.

​Cùng với Mị, trong tác phẩm, Tô Hoài đã xây dựng thành công số phận nhân vật A Phủ. Từ nhỏ, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, sống và lớn lên trong tình yêu thương, sự che chở, đùm bọc của dân làng. Lớn lên, A Phủ trở thành chàng trai khỏe mạnh “A Phủ khỏe, chạy nhanh như con ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Không chỉ khỏe mạnh mà A Phủ còn là người nhanh nhẹn, việc gì cũng biết làm, lúc còn bé, đi làm cho nhà người, chẳng mấy chốc mà A Phủ “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, rồi đến lúc phải đi ở cho nhà Pá Tra, A Phủ càng chứng tỏ được sức lực của mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò nương gò rừng”. Đồng thời, A Phủ là người có tính cách gan bướng, mạnh mẽ, bị bắt xuống đồng thấp lại trốn lên đồng cao.

Số phận của A Phủ cũng giống như Mị, đều phải trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. A Phủ trở thành người ở để gạt nợ chỉ vì A Phủ đánh con quan và thua trong một vụ kiện đầy bất công, vô lí. Thêm vào đó, khi trở thành người ở gạt nợ, A Phủ còn không có giá trị bằng một con bò, chỉ vì làm mất một con bò của nhà thống lí mà A Phủ bị trói đứng, bị hành hạ về mặt thể xác. Và rồi, trong chính lần bị trói đứng ấy, A Phủ đã gặp Mị và được Mị cắt dây cởi trói rồi cả hai cùng nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

A Phủ là một chàng trai có số phận đáng thương, vốn anh không phải là người ở Hồng Ngài mà là người làng Hắng Bia, cũng có một gia đình đàng hoàng. Nhưng thật không may một năm cả làng dính phải trận dịch đậu mùa, cả nhà còn sót mỗi mình A Phủ. Rồi người làng vì đói quá đã bán A Phủ cho người Thái, năm đó A Phủ mới 11 tuổi, thế nhưng với bản lĩnh và tính gan bướng anh không chịu sống như vậy, thế là anh bỏ trốn lên Hồng Ngài, đi làm thuê cho người ta tự nuôi sống

bản thân. Vốn là một chàng trai chịu khó, lại lăn lộn từ sớm thành thử A Phủ trở nên rất giỏi và thạo nhiều việc "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". Không chỉ vậy anh còn là một chàng trai khỏe mạnh, nhanh nhẹn, lại chăm chỉ, mà người ta không tiếc lời tấm tắc "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà. Chẳng mấy lúc mà giàu". Chính vì vậy A Phủ là người tình trong mộng của nhiều cô gái ở Hồng Ngài, thế nhưng tội thay cho chàng

trai, vì nghèo, vì mồ côi, vì những tục lệ cưới xin rườm rà mà A Phủ vẫn không thể có lấy một tấm vợ tử tế. Đang ở tuổi trẻ sung sức, trái tim vẫn khao khát những cuộc vui, dù bản thân chẳng có gì ngoài "chiếc vòng bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ", nhưng A Phủ vẫn tự tin đem khèn, sáo, quả pao, con quay, quả yến đi tìm người yêu khắp Hồng Ngài, rồi cuối cùng đụng phải đám A Sử, đâm sự đánh nhau.

A Phủ đánh thắng, nhưng dưới sức ép của cường quyền, thần quyền, anh phải chịu đền tội, đền tiền cho nhà A Sử, rồi vì không có tiền, nên đành chịu làm kiếp nô lệ, người ở để trừ nợ, một cái nợ mà "Bao giờ có tiền trả thì tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi". Vì một trận đánh tuổi trẻ phải đền bằng tự do cả cuộc đời, thậm chí là đời con đời cháu, từ một kiếp người thành kiếp

con trâu, con bò cho nhà thống lý Pá Tra. Nhưng cái khổ của A Phủ chưa dừng lại ở đó, anh làm nhiệm vụ mang cả đàn ngựa, bò của nhà thống lý đi chăn ở rừng, hàng mấy chục con một, vào mùa rừng đói, phải đem chăn xa A Phủ còn phải ở lại rừng để chăn dắt. Ấy thế rồi trong một lần sơ sẩy, mải bẫy nhím, bò ngựa lại nhiều quá A Phủ không kịp đếm, hổ đã vồ mất một con bò. Không hề sợ hãi, A Phủ xôn xáo lần theo vết chân hổ, mò được đến chỗ con bò bị hổ ăn thịt, thì chỉ còn lại một

mảnh. A Phủ nhặt mấy miếng thịt rơi quanh đấy rồi vác nốt nửa con bò về. Nghĩ bụng: "Con hổ này to lắm. Hãy còn ngửi thấy mùi hôi quanh đây. Ta về lấy súng đi tìm, thế nào cũng bắn được". Chàng trai gan dạ và dũng cảm đã sẵn sàng cho một cuộc đi săn đầy hung hiểm, thế nhưng bao đời nay kẻ cầm quyền độc ác thường chẳng suy nghĩ đơn giản giống như A Phủ vẫn nghĩ. Bọn chúng vì A Phủ làm mất một con bò mà trói đứng anh ở cái cột giữa sân với mệnh lệnh tàn nhẫn "Mày ra

ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày đứng chỗ kia.Bao giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày khỏi phải chết. Nếu không được con hổ thì tao cho mày đứng chết ở đấy". Mấy ngày trôi qua, thế nhưng đám tôi tớ nhà thống lý Pá Tra vẫn chưa bắt được hổ về, phe này có lẽ A Phủ phải chịu chết đứng ở cái cột ấy mất thôi. Có thể chết đói, chết rét, chết vì bị đánh, dù gì cũng phải chết, cuộc đời khổ cực, truân chuyên đã khiến A Phủ cảm thấy tuyệt vọng và bất

lực. Ngay lúc gần như đã kiệt quệ thì có một "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ. Đàn ông hiếm khi rơi nước mắt, mà một khi đã rơi tức là phải thấy cay đắng, đớn đau đến tột cùng. Có lẽ A Phủ đang tự xót thương cho số phận quá đỗi hẩm hiu và đắng cay của cuộc đời mình, bất hạnh từ khi nhỏ cho đến khi trưởng thành, rồi cuối cùng phải đền mạng vì làm mất một con bò. Cuộc đời anh thế mà lại không đáng giá bằng một con bò bị hổ ăn thịt. Cũng

chính giọt nước mắt ấy đã cứu cuộc đời A Phủ, nó đã đánh động trái tim và bản năng của Mị, cô đã liều lĩnh cắt dây trói để thả người đàn ông khốn khổ sắp chết, mặc kệ những nguy hiểm của bản thân. Ngay lúc nghe được hai tiếng thì thào "Đi đi..." của Mị, thì bản năng, khao khát được sống được tự do mãnh liệt của A Phủ lập tức bùng cháy, hâm nóng thân thể đang chực sụp xuống vì đói vì rét, trở thành động lực khiến anh dùng hết sức bình sinh chạy xuống sườn đồi, thoát khỏi gông

cùm của cường quyền độc ác. Khi nhìn thấy Mị đuổi theo, xin đi cùng, A Phủ đã không ngần ngại, giúp đỡ người đàn bà đã cứu mình cùng nhau chạy trốn mà không hề hỏi cớ sự. Rồi từ ấy hai người trở thành vợ chồng, điều đó chứng tỏ rằng A Phủ đã có sự thấu hiểu cảm thông và chia sẻ với cuộc đời của Mị. Chi tiết hai vợ chồng cùng nhau làm cách mạng, đã chứng tỏ ý chí và bản lĩnh của A Phủ, con người có nghị lực phi thường, khao khát tự do mãnh liệt, tự giải thoát cho bản thân bằng những con đường riêng biệt. Mà tính cho đến kết truyện A Phủ đã có đến ba lần tự giải phóng bản thân, một lần lúc bị bán đi, một lần trốn khỏi nhà thống lý và lần nữa là khi tham gia vào cách mạng, trở thành cán bộ, trở thành con người mới.

Viết về nỗi khổ đau, bất hạnh, ngòi bút nhà văn như có nước mắt, ông đã gieo vào lòng người đọc một niềm thương cảm sâu xa trước số phận con người. Giá trị nhân đạo của tác phẩm, sâu sắc nhất là sự trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người nông dân cùng khổ. Ngòi bút Tô Hoài từng bước rọi sâu khám phá vào miền thân u của thế giới nội tâm nhân vật, ông hiểu tâm tư, nỗi niềm và khát vọng của họ. Không chỉ trân trọng khát vọng tự do của Mị và A Phủ mà còn đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh của họ; đồng thời vạch ra cho họ con đường giải phóng. Nhà văn đã miêu tả quá trình diễn biến nội tâm và hành động nhân vật tự nhiên và sống động. Đó cũng là quy luật tự nhiên tất yếu của sự sống. Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã phải đi, phải nhìn, phải nghe, phải suy ngẫm, phải đào bởi bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử. Đó là tấm lòng của một nhà văn lớn luôn đứng về phía người cùng khổ để sống và viết.

Như ta đã biết, cái đích của văn chương như Nam Cao đã tuyên ngôn trong tp “Đời thừa” đó là: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có.” Có lẽ Tô Hoài thực sự là 1 nhà văn như vậy. Viết “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã dựng lên trước mắt chúng ta 1 bức chân dung của người nông dân trong xã hội.

Thế nhưng đây không còn là bức chân dung của những người nông dân trước Cách mạng mà ta bắt gặp đâu đó như ở Chí phèo, lão Hạc, anh Pha, chị Dậu,… tất cả đều bị dồn vào bước đường cùng. Những bức chân dung kia hoàn toàn thiếu ánh sáng của Đảng.

Nếu lão Hạc ở cuối tác phẩm ăn bả chó để chết; nếu cả đời chỉ khao khát làm người lương thiện nhưng kết thúc truyện chết quằn quại trên vũng máu; nếu chị Dậu hai mươi bốn tuổi đời với vẻ đẹp của người con gái “cầu Lim đình Cẩm” đã phải bán con, bán chó rồi bán nốt cả đôi dòng sữa của mình để rồi kết cục phải mở cửa chạy ra ngoài trong bầu trời tối như mực như cái tiền đồ của chị thì nhà văn Tô Hoài khi viết tác phẩm này đã giác ngộ ánh sáng của cách mạng, ý thức của thời đại đã đến với Tô Hoài. Tô Hoài đã không thể để cho Mị chết rũ xương ở Hồng Ngài. Nhà văn đã bước qua được những giới hạn của dòng VH hiện thực phê phán và để Mị gặp A Phủ. Chính điều ấy đã tiếp cho Mị sức mạnh để giải thoát người cùng cảnh ngộ, giải thoát chính bản thân mình.

Như vậy, Tô Hoài bằng tài năng của mình đã tìm ra tinh thần đoàn kết của người dân Tây Bắc. Việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như 1 chiếc bản lề khép mở 2 thế giới. Nó khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài. Nó mở ra một cuộc sống tươi sáng ở Phiềng Sa bởi đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ gặp được cán bộ cách mạng là A Châu và được giác ngộ cách mạng. Cái hành động Mị cởi trói cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến với tiếng gọi của Cách mạng là 1 mốc thách thức với chính Tô Hoài.

Có thể khẳng định với chi tiết này, Tô Hoài đã vượt qua được Chí Phèo của Nam Cao, “Vợ chồng A Phủ” được trao giải thưởng. Nhờ có sự kiện này mà “Vợ chồng A Phủ” trở thành 1 tác phẩm bản lề trên diễn đàn. Nó khép lại những hạn chế của dòng văn học hiện thực phê phán 1 thời. Nó mở ra hướng đi mới của văn học thời kì kháng chiến: những người nông dân giác ngộ Cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.” Tô Hoài thực sự là người chiến sĩ đi đầu trên mặt trận văn chương. Đọc xong tp “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân có lần đã nhận định: “Tôi nhớ như đã lần nào gặp chị Dậu trong một đám đông đi phá kho thóc Nhật. Trong những ngày huyện kỳ khởi nghĩa địch hậu o ép, chị tải lương vào đậy nắp hầm cho cán bộ bộ đội cơ sở…” Cần phải khẳng định, trong truyện chị Dậu không hề đi phá kho thóc Nhật nhưng chị lại là 1 tiền thân khỏe mạnh, 1 tiền thân không bao giờ đầu hàng hoàn cảnh, luôn đấu tranh để đứng cao hoàn hoàn cảnh.

1 tiền thân như vậy ắt phải có 1 hậu thân đi trong tập đoàn người để phá kho thóc Nhật. Hậu thân ấy là ai, người mà Ng Tuân nhầm là ai nếu không phải đó là vợ chồng A Phủ. Người yêu văn có thể tin tưởng rằng chính Mị và A Phủ mới là những người chiến sĩ CM trung kiên bởi nói như nhà thơ Tố Hữu:

“Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là phải chịu tù đày

Là gươm kề cận cổ, súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn một nửa”

Rõ ràng “Vợ chồng A Phủ” mãi mãi là hành trang để chúng ta bước vào cuộc sống. Mỗi 1 tác phẩm văn học chân chính là 1 lời đề nghị về cách sống, có khả năng nhân đạo hóa con người. “Vợ chồng A Phủ” là 1 tác phẩm​ như vậy. Nó là 1 minh chứng cho lời nhận định của nhà văn Nguyễn Khải: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những gian khổ, hy sinh. Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới. Điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy…

Chiến thuyền ngoài xa

Văn học chính là cầu nối giữa trái tim với trái tim giữa tâm hồn với tâm hồn. Văn học là “người thư kí trung thành của trái tim” luôn thấu hiểu những tâm tư tình cảm những niềm ngưỡng vọng muôn thuở của nhân loại. Mà khát vọng muôn đời của nhân loại chính là vươn đến những giá trị Chân – Thiện – Mỹ, vượt thoát khỏi giới hạn tồn tại của không gian và thời gian để hướng đến những giá trị vĩnh hằng, bất diệt. Những cái đẹp độc đáo, khác thường xuất hiện trong văn học như một lẽ tự nhiên. “Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời”. Qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện quan điểm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời thông qua số phận của người đàn bà hàng chài. Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc khoải về số phận một người đàn bà như thế, thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không biết đâu là bến bờ hạnh phúc.

​“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” Có thể nói “Chiếc thuyền ngoài xa” là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.

Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khỏe khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh (!). Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hòa với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.

Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quất thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh.

Nỗi xót xa cho nhân vật đã thể hiện ngay trong những đường nét miêu tả đầu tiên về ngoại hình, dáng vẻ, cử chỉ, thái độ. Người đàn bà hàng chài "trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch...rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ". Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lé gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm vui. Trên "gương mặt mệt mỏi, tái ngắt ấy" dường như còn không mảy may chút sức sống. Sự nghèo khổ, nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong "tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng" vì khi rời khỏi thuyền "phải lội qua quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối". Sự khốn khổ của chị còn hiện ra trong dáng vẻ "lúng túng, sợ sệt" ở toà án huyện, thậm chí khi Đầu phải mời tới lần thứ hai chị "mới dám rón rén đến ngồi ghét vào mép chiếc ghết và cố thu người lại" - hình như đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là phi lí, luôn mặc cảm và muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức mà mình có thể gây ra cho mọi người. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa đến cho người đọc chính là thái độ cam chịu, nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến bên chiếc xe rà phá mìn, chị "đứng lại ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước, chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ đang gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận năng" của người chồng vũ phu, thô bạo. Vì thế nên dù đã chấp nhận, chị không nén nổi cay đắng - cử chỉ của chị như muốn tìm đâu đó sự thay đổi hay trì hoãn dù chỉ một thoảng, nhưng rồi cũng chị cũng hiểu rằng đó là điều không thể, cánh tay chị "buông thõng" chán chường, cặp mắt nhìn xuống chân cam chịu và mệt mỏi. Khi bị chồng đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với "một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy". Đó là thái độ của một người đang thực hiện những nghĩa vụ cực khổ của mình - không cán thán, bất bình ngày tránh né.

Sau này, qua câu chuyện của chị với Đẩu, Phùng, người đọc càng xót xa hơn cho thân phận con người khốn khổ ấy khi hiểu nguyên nhân thái độ cam chịu, nhẫn nhục tới kì lạ của chị. Chị chấp nhận chịu đòn, tất nhiên không phải vì rạn đòn , càng không phải để trả giá cho những tội lỗi sai lầm của mình, cũng không phải vì quá dốt nát đến mức không còn chút ý thức về bất hạnh; về quyền sống như một con người - chị lặng lẽ chịu đựng những đau đớn vể cả thể xác và tinh thần chỉ vì "bất kể lúc nào lão thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu ... Giá mà lão uống rượu ... thì tôi còn đỡ khổ ...Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được lão .. đưa tôi lên bờ mà đánh..." Vậy là cùng một lúc, người đàn bà hàng chài không chỉ chịu đựng những vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh mà còn phải gánh vác thêm những u uất, khổ sở của người chồng khi lão không còn đủ sức để chịu đựng một mình.

Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về thể xác với những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn giày vò nặng nề về tinh thần bởi sự nhục nhã khi bị đối xử như một con vật; bởi luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương, bởi sự đau khổ khi luôn phải chứng kiến đứa con trai vì quá thương mẹ mà căm ghét đánh lại bố. Miêu tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc, vừa phải "chắp tay vái lấy vái để đứa con" để nó đừng phạm phải một tội ác trái với luân thường đạo lí, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự xót thương cho nỗi đau khổ cùng cực mà con người có thể chịu đựng. Người đàn bà đã không trốn chạy khi bị chồng đánh đập dã man trên bờ biển . Chị càng không có ý định tự giải thoát mình khỏi người chồng tàn bạo ấy. Sự chịu đựng của chị không phải chỉ trong một, hai lần chịu đòn mà kéo dài trong suốt cả cuộc đời. Chị khẩn thiết van xin không phải li hôn dù biết rằng những trận đòn cũng sẽ tiếp diễn với cuộc sống ấy, bên người chồng ấy. Hình ảnh người đàn bà "chắp tay vái lia lịa quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó" cho thấy sự cay đắng trong số phận con người - giữa các lựa chọn, chị chấp nhận chịu đựng những đầy ải , những đòn roi của chồng "vì nỗi vất vả của người đàn bà trên một con thuyền không có đàn ông" còn đáng sợ hơn cả đòn roi đầy ải; cuộc mưu sinh trên biển cả luôn tiềm ẩn những đe doạ thậm chí còn khủng khiếp hơn cả những đau đớn về thể xác, tinh thần do người chồng mang đến. Nếu "tiếng thở dài" đầy chua chát của Đẩu đã gợi ra rất cả những bất lực của thiện chí, những bế tắc của kiếp người.

Câu chuyện của người đàn bà hàng chài giúp người đọc hiểu ra nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống của gia đình chị chính là tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dài trên mặt biển gây ra tâm lí bế tắc, u uất. Trước năm 1975, mỗi khi biển động "cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối", từ khi Cách Mạng về, cuộc sống của họ đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo chưa lúc nào buông tha. Cuộc sống của những người ngư dân trên biển hoá ra không hề thơ mộng, lãng mạn như bức tranh trong thời xưa về hình ảnh "thuyền ngư phủ lạc trong sương" (Xuân Diệu) mà vất vả, lam lũ vì gánh nặng mưu sinh, bế tắc cùng quẫn vì hơn chục con người chen chúc trên một chiếc thuyền chật chội, tăm tối, nhục nhã vì tình trạng thất học và bạo lực nặng nề...Đề bi kịch thương ngày của người đàn bà hàng chài diễn ra sau những bãi xe tăng đổ nát của chiến trường xưa, có lẽ NMC muốn gợi ra cho người đọc những lo âu, suy ngẫm: Cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối và bạo lực còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Chừng nào chưa thoát khỏi đói nghèo thì chừng đó con người còn phải sống chung với cái xấu, cái ác. Chúng đã đổ xương máu bao nhiêu năm qua để giành được độc lập, tự do trong "cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc", cho quyền sống của từng con người, để đem lại cơm cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa đến cho biết bao con người vẫn đang chìm đắm trong kiếp sống tăm tối, đói nghèo.

Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà làng chài quê mùa thất học có "con mắt như đang nhìn suốt cuộc đời mình", có "sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời", đã khiến các anh trở nên nông nổi, ngây thơ. Những sự giận giữ, bất bình, thấm đẫm lòng nhân hậu, những lời khuyên đầy thiện chí, những giải pháp tưởng như đúng đắn: "Cả nước này không có người chồng nào như hắn...chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu" đều lần lượt vấp phải những lí lẽ bình dị, nghiệt ngã và không thể thay đổi của hiện thực cuộc sống. Chị chỉ rõ sự thiếu thực tế của họ "lòng các chú tốt nhưng các đâu có phải là người làm ăn cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc". Chị cũng cho họ thấy sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong cuộc sống bấp bênh và luôn tiềm ẩn những đe dọa bất thường trên mặt biển: "Các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông"..."đàn bà hàng chài chúng tôi cần có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con"...Chị còn giúp Đẩu và Phùng nhận ra tình trạng luẩn quẩn bế tắc trong cuộc sống của một ngư dân trên biển: Ở thuyền thì bực bội, bức bối nhưng lên bờ thị lại phải bỏ nghề mà sự phụ thuộc của họ lại gắn chặt với nghề này vì vậy những chính sách của Nhà nước nhiều khi cũng trở nên bất cập với thực tế cuộc sống của họ: "làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có làm được cái thuyền lưới vó. Từ ngày Cách mạng về, Cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở vì không bỏ nghề được!". Trước kết luận chua chát của Đẩu về cái nghịch lí xót xa: "Trên thuyền phải có một người đàn ông dù hắn man rợ tàn bạo", người đàn bà sông nước có một lời đáp thật sâu sắc, chân tình mà thắt vào lòng người đọc bởi những chiêm nghiệm rút ra từ một cuộc đời gian truân vất vả: "Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú!", tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của cả hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế ... đã tạo ra sự đối sánh với người đàn bà từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu những sự có thể và không thể của cuộc sống đời thường. Sự sâu sắc của chị chiến người đọc khâm phục nhưng cũng xót thương hơn cho một kiếp người.

Chị chịu đựng những trận đòng tàn nhẫn của chồng không chỉ vì bản tính nhẫn nhục cam chịu mà con như một cách giúp lão làm vơi đi những u uất, khổ sở chất chứa trong lòng. Chính vì thế, mà chị hoàn toàn tự nguyện, lặng lẽ theo chồng lên bờ, lặng lẽ đi vào sâu phía sau bãi xe tăng , lặng lẽ đứng lại chờ trận đòn giận dữ như lửa của chồng, lặng lẽ chịu đòn "không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy", để rồi sau đó đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng đuổi theo gã đàn ông. Cả hai người trở về thuyền, đó là cách cư xử của một người đang cố gắng thể hiện những bổn phận, nghĩa vụ của mình dù đó là những bổn phận, nghĩa vụ phi nhân tính. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng, thậm chí còn mang một mặc cảm có lỗi khi cho rằng "lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật". Người vợ hiểu rõ nỗi hi sinh, nhọc nhằn trên mặt biển đầy sóng gió, sự nghèo đói, túng quẫn trên một con thuyền chật chội, những cay đắng bế tắc triền miên đã vượt khỏi giới hạn chịu đựng của con người khiến "Anh con trai cục tính nhưng hiền lành" không bao giờ đánh đập vợ đã dần trở thành lão chồng vũ phu, độc ác không phải vì thù ghét gì người vợ khốn khổ, lão đánh vợ như người khác uống rượu cho quên nguôi nỗi cơ cực của mình. Nếu cả Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu, nhẫn nhục của người vợ thì khi hiểu ra nguyên nhân của thái độ ấy họ lại càng kinh ngạc về sự nhân hậu vị tha trong tấm lòng người đàn bà hàng chài cũng lớn lao kì lạ bởi mức "không thể nào hiểu được" - cảm động nhất là vẻ đẹp của tình mẫu tử trong trái tim người đàn bà hàng chài.

Tình mẫu tử được chị coi như một thiên tính đương nhiên nhiên của người phụ nữ: "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được".

Chính tình thương yêu sâu sắc với con cái đã khiến chị phải nhẫn nhục, chịu đựng đầy ải tàn nhẫn của người chồng để con thuyền có đàn ông khỏe mạnh, biết nghề cùng mình "chèo chống khi phong ba" để cùng làm ăn nuôi nấng con cái, cũng vì thương con sợ các con bị tổn thương vì cảnh bạo lực đau lòng mà chị phải xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh; rồi vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác, "Sao thằng bé có thể làm những điều dại dột với ba nó", mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị yêu thương nhất lên rừng sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như cũng chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài".

phan-tich-cac-tac-pham-trong-tam-12-van-dung-ly-luan-van-hoc-5

Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ chịu đựng như một người câm, vậy mà khi thằng Phác lao tới đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi đau đớn. Chị "mếu máo" gọi con, "ngồi xẹp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy". Thằng bé đã từng "như một viên đạn bắn vào tâm hồn người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà , làm rỏ xuống những dòng nước mắt". Tới khi nói chuyện với Đẩu và Phùng, nhắc tới thằng Phác, chị vẫn khóc - tiếng khóc của tình thương con nỗi đau đớn quặn thắt trong trái tim người mẹ: nỗi đau khi không che chắn nổi cho tuổi thơ các con được trong sáng, đau thêm nỗi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình, càng đau hơn bởi nỗi sợ hãi cho sự phát triển tính cách của con trong môi trường tăm tối, bạo lực..., bao trùm lên tất cả là nỗi đau của người mẹ yêu thương con, mong con khôn lớn mà lại không thể đem đến cho con cuộc sống no ấm, bình yên.

Tình mẫu của chị không chỉ được thể hiện qua nước mắt mà còn thể hiện ra qua niềm vui vùi dẫu hiếm hoi, ít ỏi - những niềm vui chắt ra từ những cay đắng, nhọc nhằn...Khi nhắc tới những lúc vợ chồng con cái sống hoà thuận trên thuyền, "khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười". Cam chịu, nhẫn nhục vì con, lam lũ vất cả vì con, cho nên riêng niềm vui của chị cũng xuất phát từ con cái, chị bày tỏ chân thành, cảm động: "vui sướng nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Nhân vật người đàn bà hàng chài còn đem đến cho người đọc những ấn tượng thật đặc biệt. Luôn ý thức sâu sắc về thân phận, về ý nghĩa cuộc sống, về thiên chức của mình, đó là những nguyên nhân khiến chị có thể chịu đựng tất cả những lúc khó khăn, thử thách, từ những lam lũ, vất vả của đói nghèo đến những đau đớn khổ ải trong bi kịch gia đình, lấy sự chịu đựng phi thường của mình, cố gắng che chở cho sự bình yên của gia đình, bảo vệ niềm tin trong trẻo, ngây thơ ấy cho tâm hồn con trẻ, gánh đỡ cho chồng những nhọc nhằn, cay đắng - dù những cố gắng ấy vẫn luôn thất bại ê chề trước sự khắc nghiệt của cuộc sống. Mỗi khi nhìn lại bức ảnh về "Chiếc thuyền ngoài xa", bao giờ nghệ sĩ Phùng "cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giẫm trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn trong đám đông...". Đó là hình ảnh những con người vô danh, khốn khổ, lầm lũi, họ đã vượt lên tất cả những gian truân cay đắng của cuộc đời, không phải vì mình mà vì những người thân yêu - lí do để họ sống và chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của họ.

Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.

Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”.Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người. Nhà phê bình Nikolai Nikulin cũng từng nhận xét: "Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh (Nguyễn Minh Châu) đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng".

Có thể nói hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn muốn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời. "Đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý" (Tô Hoài) .

Người lái đò sông Đà

Phân tích tác phẩm “ Người lái đò sông Đà”- Nguyễn Tuân

Ngôn ngữ nhân dân là “tiếng nói nguyên liệu” còn ngôn ngữ văn học là “tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện”. – M go rơ ki. Là bậc thầy về ngôn từ và là một trong những cây bút có sức sáng tạo độc đáo nhất của nền văn học Việt Nam , Nguyễn Tuân đã cho thấy sự tài hoa, uyên bác , cá tính riêng trong phong cách sáng tác trong những tác phẩm của mình. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành công ở thể loại tùy bút. “ Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông . Qua tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã có phát hiện mới mẻ về vẻ đẹp của con sông Tây Bắc , đồng thời ca ngợi vẻ đẹp lao động tài ba của người lao động mà cụ thể ở đây là hình tượng người lái đò mưu sinh trên sông .

​Tùy bút “ Người lái đò sông đà” được sáng tác sau chuyến đi thực tế gian nan nhưng cũng đầy hào hứng nơi Tây Bắc xa xôi của Nguyễn Tuân . Bài tùy bút được in trong tập “ Sông Đà” xuất bản năm 1960 – giai đoạn miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa . Tây Bắc là nơi có biết bao nhà văn , nhà thơ hướng ngòi bút của mình để thực hiện quá trình lột xác văn học và phải nói “ Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm xuất sắc nhất giai đoạn này.

Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét “… Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm…”. Quả đúng là như vậy, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, thường miêu tả cái đẹp của thiên nhiên , con người bằng sự quan sát tỉ mỉ , tinh tế . Ấy vậy mà hình ảnh con sông Đà hiện lên trong văn của ông thật hùng vĩ, hung bạo nhưng cũng rất trữ tình , thơ mộng . Trước hết sự hung bạo của con sông Tây Bắc được nhà văn miêu tả hết sức tinh tế với ngôn từ độc đáo , sáng tạo .

Sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo, dữ dằn , lắm thác nhiều ghềnh , không chảy theo khuôn khổ nhất định như những con sông khác : “Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”. Trước hết tính cách hung bạo ấy được thể hiện ở chỗ vách đá “ đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông . Cái hẹp của lòng sông được tác giả miêu tả đầy chân thực “ đúng ngọ mới có mặt trời” , chặt hẹp tới mức “ chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách” , khiến cho người đi trên sông ngồi trên đò thấy mình “ đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên tầng nhà thứ mấy”… Bằng sự so sánh vừa cụ thể vừa chính xác , nhà văn đã làm cho người đọc cảm nhận đầy thực tế sự nguy hiểm của con sông . Những câu văn miêu tả , liên tưởng đầy độc đáo ấy đã làm cho con sông Đà trở nên đẹp ở vẻ hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm. Vũ Quần Phương khi viết về sông Đà cũng từng nhắc tới những vách đá nơi đây :

Tôi đi với sông Đà

Bao lần rồi vẫn lạ

Tôi thuộc ngầm, thuộc đá

Tôi thuộc lũ ,thuộc dòng

Chưa dừng lại ở đó , nhà văn còn khiến người đọc bất ngờ khi miêu tả tính cách hung bạo của con sông qua “ Nước-đá-sóng-gió” : “ hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Động từ “ xô” được ngăn cách bởi nhiều dấu phẩy liên tục tạo nên sự trùng điệp , làm cho dòng sông đã dữ dằn càng thêm dữ dằn hơn . Điệp từ “ sóng , gió” gợi lên những khó khăn cho con người khi di chuyển trên những quãng sông dữ tợn . Dòng sông như một kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng con người , những ai đi qua đây bởi “ quãng này nếu khinh suất không thận trọng tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

Tiếp tục miêu tả sự hung hăng của con sông , nhà văn đưa người đọc tới quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La , đến với những hút nước và thác đá . Những cái hút “ giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu” , xoáy tít tận đáy , “ nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” , có lúc lại nghe rùng rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Đúng là sông Đà không khác gì một con thủy quái đi đến đâu cũng gieo rắc nguy hiểm . Cho nên “ không một chiếc thuyền nào dám men gần” , bởi nếu bị hút là “trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi , bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau là tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Thác thì cứ thi nhau “oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” . Dưới chân thác thì “ sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Cách so sánh,liên tưởng của Nguyễn Tuân thật độc đáo và rất hiếm thấy ở trong văn học , nó tạo cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy,nhìn thấy , được tận mắt chứng kiến cái hung dữ của con sông.

Nếu chỉ dừng lại ở đó thì sông Đà sẽ không có được những câu ví “đắt” như “mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người được. Bởi trùng vi thạch trận trên sông mới là nơi hấp dẫn nhất, lôi cuốn nhất của sông Đà. Nơi mà đá mai phục hết trong lòng sông “mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Mỗi hòn đều có một nhiệm vụ riêng, chúng “đứng, nằm, ngồi tùy thích” miễn sao hoàn thành tốt nhiệm vụ. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu tả.

Sông Đà rất kiên định với mục tiêu của mình, nó thận trọng đặt ba trùng vây cho thạch trận trên sông với cách bố trí lực lượng vô cùng nham hiểm, làm sao để bắt sống mỗi con thuyền qua đây. Ở trùng vây thứ nhất: nó xếp đá chia thành ba tuyến, gồm năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh lập lờ ở phía tả ngạn (bên trái) dòng sông. Tuyến một, “đá chia làm ba hàng” như đòi ăn chết con thuyền, một khi thuyền đã vào thạch trận là không có đường lui. Tuyến hai, có thêm hàng tiền vệ cánh cửa để dụ cái thuyền vào sâu bên trong, rồi “nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi” (đánh ngược trở lại). Tuyến ba, là cả một “pháo đài đá” với nhiệm vụ “phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Trùng vây thứ hai: dòng sông tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh lúc này nằm lệch ở phía bờ hữu ngạn. “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc lao mạnh trên sông đá” như muốn nhấn chìm con thuyền, bọn tướng đá đứng khiêu khích ngay giữa cửa vào, dựng đứng thành cửa ải “nhằm níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Sang trùng vây thứ ba, tưởng dễ dàng hơn khi ít cửa hơn, nhưng sự nguy hiểm lại tăng lên gấp bội bởi “bên trái bên phải đều là cửa chết”, cửa sinh nằm ở giữa nhưng lại bị bọn đá hậu vệ bao quanh tạo thành 3 cửa “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng”; đá xếp thành cổng, cánh mở cánh khép. Tính cách hung bạo của sông Đà cho thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, từ đó làm nổi bật hình ảnh con người lao động và tình yêu bao la mà Nguyễn Tuân dành cho sông Đà. Ở đó không chỉ là cái tài ở văn chương, cái tâm của người nghệ sĩ mà còn là sự tinh tế của một bậc thầy ngôn ngữ. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu).

​Không chỉ miêu tả con sông Đà ở phương diện hùng vĩ , hung bạo của nó mà nhà văn còn quan sát con sông ở một phương diện khác đầy thơ mộng và trữ tình . Đúng như lời nhận xét của Nguyễn Đăng Mạnh : “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình…” . Ông đã miêu tả nét trữ tình của con sông khi đánh tầm mắt từ trên cao xuống sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của Đà giang, nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm tăng lên sự bí hiểm của dòng sông, ta như đi lạc giữa chốn bồng lai vừa thực, vừa mộng. Mái tóc trữ tình ấy, còn được cài thêm hoa ban, hoa gạo đẹp mơ màng trong khói nương mùa xuân. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông là “cố nhân” xa thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Sự nhân cách hóa đó làm cho sông Đà đã trữ tình lại càng trở nên gợi cảm hơn! Đúng như trong “Thư trách người tình nhân không quen biết” của Tản Đà viết:

“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh

Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Nhà văn không đưa ra nhận xét một cách hồ đồ, mà ông “đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà; đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống” sau đó mới khẳng định: sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà “xanh ngọc bích” chứ không “xanh màu xanh canh hến như màu của sông Gâm, sông Lô”. “Xanh ngọc bích” là xanh trong xanh sáng – một sắc màu gợi cảm giác trong lành, đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời cùng nhau hòa quyện. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Câu văn so sánh khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước sự đa dạng của sắc nước sông Đà, nó không thay đổi dồn dập như màu nước sông Hương “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” hay đỏ nặng một màu phù sa như nước sông Hồng. Bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc những cảnh đẹp ấn tượng dọc đôi bờ sông. Không dữ dội như quãng bày thạch trận trên sông, “cảnh ven sông lặng như tờ, từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, “Bờ sông Đà, , bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà”, đẹp thơ mộng “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Tác giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Đúng như nhà văn đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi thơ”. Điểm thêm vào đó là “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” cùng “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy mặc khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Lý Bạch “Yên hoa tâm nguyệt há Dương Châu” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Chất thơ trong nét tính cách trữ tình này, có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy, gợi lên trong tâm trí người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc – nơi khởi nguồn cho tình yêu quê hương đất nước.

“… Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ…”. (Phan Huy Đông). Bằng sự quan sát tinh tường , tỉ mỉ của mình Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công vẻ đẹp của con sông Đà lúc thì hung bạo , lúc thì thơ mộng trữ tình như “ một cô thiếu nữ” .

​Từ việc miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo của con sông Tây Bắc xa xôi nhà văn đã xây dựng lên nhằm tôn vinh vẻ đẹp tài hoa trong lao động của con người mà nổi bật ở đây là người lái đò mưu sinh trên những quãng sông . Hình tượng người lái đò xuất hiện với vẻ ngoài chạc tuổi bảy mươi “ đầu tóc bạc trắng” nhưng thân hình ông “vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch” cùng cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Cánh tay “lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp lấy một cuống lái”, ngoại hình ông lái đò hiện lên đã in đậm dấu ấn của người lao động trên miền sông nước. Trên ngực nổi lên một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Sau hơn mười năm chèo đò ngược xuôi sông Đà hàng trăm chuyến, ông đã “có tay lái ra hoa”, phá từng trùng vi thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước” đã nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá. Cũng không phải ngẫu nhiên mà người lái đò lại “nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá” mà cuộc sống của họ là cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành lấy sự sống từ tay nó về tay mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đi sâu vào miêu tả người lái đò trong cảnh vượt thác: ông lái đò khéo léo tinh tế trong từng động tác đưa thuyền qua mỗi trùng vi thạch trận trên chiến trường sông nước, mỗi trùng vi vượt qua lại một nét tính cách khác nhau hiện lên.Trước tiên, ở người lái đò là cả một sự từng trải, phải là người thực sự say mê công việc, yêu mến thiên nhiên Tây Bắc thì mới có thể gắn bó với dòng sông suốt cả một đời người. Ông lái đò hiểu sâu sắc về thạch trận sông Đà, ông“nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Sông Đà đối với ông như “một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Chính vì vậy, ông “đã nắm chắc được binh pháp của thần Sông thần Đá, ông thuộc quy luật phục kích của lũ đá” sông Đà.

Cảnh vượt thác được coi là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có - ở đó là vẻ đẹp tài hoa, mưu trí; sự thông minh, linh hoạt của người lái đò. Chất tài hoa nghệ sĩ ấy được thể hiện trong bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này – thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là “trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh”. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức… người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó chính là tài năng của bậc thầy phù thuỷ ngôn ngữ như Nguyễn Tuân. Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,…

Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.

Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.

So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến trên chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt… Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí dũng song toàn.

Đến trùng vi cuối cùng, sông Đà còn một cơ hội cuối cùng để chiến thắng được người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Thạch trận sông Đà, nguy hiểm là vậy, dữ tợn là vậy nhưng ông lái đò bằng mưu trí của mình, vẫn vượt qua một cách đầy quả cảm. Qua đó, phải chăng nhà văn muốn chúng ta nghiền ngẫm một triết lý: giữa cái thế giới độc dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức mạnh man dại và lập lờ cạm bẫy, con người vẫn đủ khả năng tìm thấy luồng sinh!

Hình tượng người lái đò sông Đà là đại diện cho những người lao động trong giai đoạn bắt đầu xây dựng lại đất nước. Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà chính là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm.

"Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa" – đó là lời nhận xét cho phong cách văn chương độc đáo của Nguyễn Tuân . Bằng những liên tưởng độc đáo kết hợp với phép so sánh , nhân hóa , ẩn dụ ,điệp từ nhuần nguyễn , nhà văn đã mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thực khi đọc tác phẩm “ Người lái đò sông Đà” . Tùy bút là lời ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên , đất nước nói chung và sự tài ba của con người lao động nói riêng . Tất cả đã được tạo nên bởi sự tài hoa , uyên bác , con mắt quan sát tinh tường cuẩ Nguyễn Tuân.

​ Quả thật không sai khi nói Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm cái đẹp , cái đẹp ông tìm kiếm không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật mà còn là cái đẹp của con người . Có lẽ đối với người dân Tây Bắc hình ảnh con sông Đà và người lái đò vô cùng gần gũi nhưng đối với độc giả khi đọc Tùy bút “ Người lái đò sông Đà “ của Nguyễn Tuân sẽ không khỏi bất ngờ và thán phục trước vẻ đẹp của họ . Nguyễn Tuân đã đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam một tác phẩm đầy sáng tạo với phong cách đậm chất riêng và cái tôi của một người nghệ sĩ , một bậc thầy về ngôn từ.

Ai đã đặt tên cho dòng sông

Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt, nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một quá trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn, sinh động…Đọc bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông’ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, hình ảnh dòng sông xứ Huế hiện lên thật đặc biệt, nó không đơn thuần là một dòng sông đẹp, thơ mộng, nó còn là một chứng nhân của lịch sử, là niềm tự hào của xứ Huế nói riêng và của Việt Nam nói chung. Hoàng Phủ Ngọc Tường, người một đời gắn bó với Huế, bằng tình cảm tha thiết, bằng tiềm năng văn hóa đã khám phá vẻ đẹp của Hương Giang một cách toàn diện, đưa Sông Hương trở thành biểu tượng của đất cố đô.

​Bút kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào năm 1981 , in trong tập sách cùng tên mang đậm chất sử thi về thiên nhiên , qua đó tác giả cũng bộc lộ tình yêu đối với nơi đây . Chính vì Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra và lớn lên tại Huế nên từ nhỏ ông đã gắn bó với dòng Hương : "Ngoài những giờ lên lớp, mỗi ngày tôi đều tắm sông cùng với nhóm bạn học, ngày nào không ra sông lại thấy hụt hẫng như thiếu một điều gì đó", con sông ấy đã gắn bó với tuổi thơ của tác giả để rồi khi đưa vào tác phẩm của mình , ông đã có sự miêu tả rất chân thực, gần gũi . Đến với những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc có dịp hiểu rõ thêm về cội nguồn sông Hương và văn hóa Huế.

​Mở đầu bài kí , Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định rằng : “ Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến hình như sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất” – sông Hương gắn liền với không gian địa lý , văn hóa lịch sử của thành phố mộng mơ , đó là xứ Huế . Và qua chính lời mở đầu nồng nàn này, nhà văn đã đặt vị trí con sông Hương ngang vằng với những con sông khác nổi tiếng trên thế giới . Lời khẳng định ấy thể hiện niềm tự hào của tác giả khi được sinh ra và lớn lên tại mảnh đất xinh đẹp , nơi có con sông thơ mộng , trữ tình ấy.

Trước hết , sông Hương được nhà văn miêu tả dưới góc độ địa lý bằng ngòi bút miêu tả tinh tế , giàu cảm xúc của mình . Từ góc độ địa lý, người đọc có thể hình dung đến vẻ đẹp thơ mộng của con sông Hương với bốn đoạn chảy : đoạn thượng nguồn , đoạn đồng bằng, đoạn trong lòng kinh thành Huế , đoạn rời xa thành phố Huế. Nhà văn đã giới thiệu đến độc giả sông Hương khi ở đoạn thượng nguồn – một vẻ đẹp không lẫn vào đâu , được ví “ như một bản trường ca của rừng già” , cách ví von đó hoàn toàn dễ hiểu bởi sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn hùng vĩ. Chưa hết, dòng chảy của sông Hương ở thượng nguồn còn hiện lên với những nét tính cách trái ngược nhau : lúc thì mang sức sống mãnh liệt và dữ dội “ rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn ,mãnh liệt qua những thác ghềnh , cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn , lúc thì lại dịu dàng , say đắm “ giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” . Những hình ảnh so sánh được nhà văn sử dụng rất tinh tế và đạt đến độ nhuần nhuyễn làm cho hình ảnh con sông Hương ở thượng nguồn mang những nét tính cách riêng , lúc thì bình dị , lúc thì bí ẩn . Giữa lòng Trường Sơn , sông Hương được nhân hóa như “ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” , khi ra khỏi rừng già “ sông Hương lại nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” , bởi nó đã rừng già hun đúc cho “ một bản lĩnh gan dạ , một tâm hồn tự do và trong sáng . Nhà thơ Vũ Dung cũng từng ví sông Hương như một cô gái dịu dàng nhưng đầy quyến rũ :

Một lần anh đến Huế thơ

Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng

Sông Hương quyến rũ lạ lùng

Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm cho con sông Hương nổi bật lên bởi sức mạnh của bản năng của người con gái được chế ngự bởi cấu trúc địa lý , lãnh thổ . Để kết thúc hành trình vượt núi tìm về kinh thành , nhà văn đã trực tiếp đưa quan điểm của mình vào bàn luận “ Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua” . Lời trữ tình ấy như thể hiện sự am hiểu sâu sắc về con sông quê hương của nhà văn . Nhưng cô gái Di-gan ấy quả thật rất khó đoán , nàng không chỉ mang những tính cách khác biệt mà khi ra khỏi rừng già nàng còn muốn giấu kín vẻ dữ dội , mãnh liệt “ đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Nhà văn đã nhìn sông Hương không chỉ như một dòng chảy tự nhiên mà còn ví nó như một quần thể sống, như một con người với vẻ đẹp tâm hồn đằm thắm, nữ tính và mang những nét cá tính riêng . " Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trằm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế" quả thật là không sai.

Tiếp tục ở đoạn chảy thứ hai, nhà văn đã miêu tả con sông Hương như “ người tình mong đợi đến đánh thức người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Nàng gây ấn tượng bởi cách di chuyển “ chuyển dòng liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột , uốn mình theo những đường cong mềm mại” . Ở đây dòng chảy của con sông không theo một quy luật nhất định mà lúc thì chảy theo hướng Nam bắc từ ngã ba Tuần qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản ; lúc thì lại chuyển sang hướng Tây Bắc vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều , Lương Quán; rồi “ " Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trằm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế". Cứ mỗi điểm sông Hương đi qua , ta lại được mở mang sự hiểu biết về những khu vực địa lý xứ Huế, quả đúng như ca dao dân ca xưa viết :

Đường vô xứ Huế loanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ

Chắc hẳn phải yêu và am hiểu về nơi đây lắm tác giả mới có thể viết nên những câu văn chân thực, sống động đến thế ! Con sông Hương xuất hiện lên trong bài kí như một bức tranh đường nét, có hình khối “ mềm mại như tấm lụa , với những chiếc thuyền xuôi ngược bé vừa bằng con thoi” lại thêm màu nước thay đổi theo thời gian “ sớm xanh , trư vàng, chiều tím” . Chúng ta không phải chờ đến mùa xuân mới được ngắm “màu xanh ngọc bích” hay đến tận mùa thu mới được chiêm ngưỡng màu “ lừ lừ chín đỏ” như nước sông Đà trong cái trữ tình thơ mộng của Nguyễn Tuân mà trong một ngày ở xứ Huế ta có thể chiêm ngưỡng cảnh sắc ấy tại sông Hương. Không chỉ tập trung miêu tả con sông thơ mộng mà nhà văn còn hướng ngòi bút tới vẻ đẹp cổ thi trầm mặc của những lăng mộ vua chúa triều Nguyễn trong lòng những rừng thông u tịch và kiêu hãnh “ những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Sự trầm mặc của dòng sông cũng như vẻ đẹp văn hóa của người Huế, họ vốn coi trọng yếu tố tâm linh và nhất là lòng thành với các bậc tiền nhân.

Kinh thành Huế chính là “ người tình trông đợi” của con sông Hương – đó là nơi mà cô gái Di-gan mong muốn đến một cách nhanh nhất . Bởi vậy khi tạm biệt vùng ngoại ô Kim Long , nàng như “ đã tìm đúng đường về” , nàng “ kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc” . Từ đó, nàng vui vẻ hẳn lên . Chảy qua cầu Tràng tiền “ chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” , giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên nàng uốn một “cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” – như một tiếng “vâng’ không nói ra của tình yêu . Câu văn miêu tả vẻ đẹp của sông Hương nghe thật nhẹ nhàng, lãng mạn và tình tứ .

Con sông chảy trong lòng thành phố “ chậm, thực chậm, cơ đồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh” như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, khác hẳn với dòng chảy quá nhanh của Nê-va. Sau lời khẳng định đầy tự hào về con sông quê hương ở đầu bút kí, thì một lần nữa nhà văn lại mang sông Hương để so sánh với các dòng sông nổi tiếng trên thế giới : Sông xen của Pháp, sông Đa-nuýt của Bu-đa-pét, sông Nê-va ở Lê-nin-grat cùng là dòng chảy trong lòng thành phố nhưng sông Hương lại đặc biệt hơn cả. Bởi nó chỉ dành riêng cho Huế , duy nhất ở Huế. Nhưng điều quan trọng hơn cả là sông Hương vẫn giữ được nét cổ kính của mình một cách nguyên vẹn “ trong tổng thể nàng vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông”.

Nếu như ở đoạn trong lòng thành phố sông Hương mang tâm trạng của một thiếu nữ vươi tươi , yêu đời thì khi rời khỏi kinh thành Huế , nàng lại mang tâm trạng xao xuyến không muốn rời xa. Bởi vậy nên nàng “ chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ” , cảnh thôn Vĩ Dạ đẹp như trong tranh – nơi mà Hàn Mặc Tử từng rất khắc khoải mong chờ trở lại khi trên giường bệnh :

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Cảnh đẹp nơi đây như chốn bồng lai tiên cảnh , khiến cho Nàng Hương quyến luyến không muốn dời như “sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ” . Nàng vội vàng đổi dòng một cách đột ngột , khúc quanh bất ngờ này được tác giả ví như “ một nỗi vấn vương , cả một chút lắng lo kín đáo của tình yêu”. Giống như Nàng Kiều trong đêm tự tình quay trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi về biển cả “ còn non , còn nước , còn dài , còn về, còn nhớ” mới đủ để diễn tả sự vấn vương của nàng Hương . Lời thề thủy chung son sắt ấy làm ta nhớ đến cảnh thề nguyện của Thúy Kiều với Kim Trọng trong đêm tự tình :

Tiên thề cùng thảo một chương

Tóc mây một món dao vàng chia đôi

Vừng trăng vàng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song .

Đó còn là tấm lòng thủy chung , son sắt của sông Hương dành riêng cho xứ Huế mộng mơ và người dân Châu Hóa đã “ chuyển thành giọng hò dân gian” vang động khắp lưu vực sông Hương .

​Không những thế , khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của sông Hương dưới góc độ lịch sử , ta càng có thêm cơ sở để nói rằng Hoàng Phủ Ngọc tường là nhà văn sinh ra để viết về Huế , về văn hóa nơi đây. Ông không chỉ nhìn con sông trôi ở hiện tại , ngày ngày bồi đắp phù sa cho cánh đồng Châu Hóa mà còn nhìn sông Hương như khởi nguồn của những giá trị tinh thần , cho những hào hùng trong suốt chiều dài lịch sử đất nước .Từ thời các vua Hùng ; sông Hương đã là “ một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước” , trong sách địa dư của Nguyễn Trãi : sông Hương còn mang tên Linh Giang , nó “ đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc” . Thời cận đại “ Nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn huệ “ vào thế kỉ XVIII , “ nó sống hết lịch sử bi tráng thế kỉ XIX với những cuộc khởi nghĩa đẫm máu” . Đến thời hiện đại, nó chứng kiến những chiến công long trời lở đất thời cách mạng tháng tám những năm 1945 , nó cổ vũ nồng nhiệt cho những cuộc tiến công Xuân Mậu Thân năm 1968 , nó đau đớn hứng chịu sự tàn phá , khốc liệt của đế quốc Mỹ những năm 1975. Sông Hương như một nhân chứng lịch sử của kinh thành Huế . Đó là “dòng sông của thời gian ngân vang , của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc . Khi nghe lời gọi , nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công , để rồi nó trở về với cuộc sống đời thường , làm một người con gái dịu dàng của đất nước”. Đúng như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu “ lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son của thành phố Huế ,thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc…”

​Như chúng ta cũng biết rằng Huế nổi tiếng với những làn điệu cổ điển – Ca Huế trên sông Hương được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia , ở đó là “ một nền âm nhạc cổ điển được hình thành và phát triển song hành với những sinh hoạt âm nhạc cung đình từ đời các vua chúa thời Nguyễn , trải dài suốt mấy thế kỷ” . Hoàng Phủ Ngọc Tường thật tinh tế và khéo léo khi khắc họa sông Hương như “ một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” với toàn bộ nền nhạc cổ điển được sinh thành trên mặt nước. Một hình ảnh vừa thể hiện vẻ đẹp bí ẩn ,âm vang của nàng Hương dưới cái khoảnh khắc trùng lại của vùng sông nước , vừa thể hiện vẻ tài hoa, sâu lắng của mảnh đất cố đô . Không những thế , nó còn được ví von như người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn , một đêm khuya nghe người con cái đọc Kiều : “ Trong như tiếng hạc bay qua –Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” , người nghệ nhân ấy đã trỗi dậy , vỗ đùi chỉ vào trang sách và nói “ đó là tứ đại cảnh” – một bản nhạc cổ Huế , tương truyền so vua Tự Đức sáng tác . Bằng ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhớ tới Nguyễn Du “ bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu. Và từ đó , những bản đàn đã đi suốt đời Kiều” . Đây là cách liên tưởng độc đáo , tài hoa mang đến cho người đọc sự bồi hồi xao xuyến. Những làn điệu ca Huế cùng được nhiều nhà thơ nhắc tới :

Sông Hương nước chảy lững lờ

Đôi bờ rủ bóng mộng mơ ảo huyền

Xuôi dòng ngắm cảnh du thuyền

Ta như lạc cõi thần tiên phiêu bồng

Điệu hò vang vọng trên sông

Trời xanh gió mát bềnh bồng mây trôi

Triền sông trải dưới chân đồi

Thuyền kia nhẹ lướt ta ngồi hát ru

​​​​​(Hò thuyền trên sông Hương- Khách Du Lãng)

Mỗi nhà thơ , nhà văn đặt chân đến Huế đều có khám phá riêng về sông Hương , để nhận xét một cách công bằng thì “ dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà : từ xanh biếc thường ngày ,nó bỗng thay đổi màu bất ngờ “ dòng sông trắng- lá cây xanh” , trong khí phách của Cao Bá Quát : từ tha thướt mơ màng nó chợt hùng tráng lên “ như kiếm dựng trời xanh”; trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan lại là “ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng láng” , còn trong thơ Tố Hữu thì “ đột khởi thành sức mạnh phục sinh của nhân dân” . Mỗi nhà thơ , nhà văn đều khám phá, quan sát con sông Hương bằng những nét riêng nhưng tất cả đều hướng tới vẻ đẹp thơ mộng , trữ tình của nó . Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy , ông đã xó những nét phát hiện về con sông xứ Huế trên nhiều phương diện : lịch sử , địa lý , văn hóa …

​Như ông đã nói: "Những dòng sông luôn mang lại cảm xúc sáng tác cho tôi, đã nuôi dưỡng tâm hồn văn học tôi từ nhỏ cho đến bây giờ và mãi mãi sau này". Bằng những vốn hiểu biết sâu rộng về kiến thức lịch sử, địa lý , văn hóa , nghệ thuật kết hợp hài hòa với cảm xúc và trí tuệ , chủ quan và khách quan , Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa nên dòng sông Hương đa màu sắc trên thi đàn văn học Việt Nam bằng bút pháp miêu tả,nhân hóa , so sánh đầy ấn tượng . Dòng sông ấy khiến ai đi qua cũng muốn được trở lại ngắm nhìn vẻ đẹp đa màu của nó – đây cũng chính là biểu hiện của Thành phố Huế mộng mơ.

​“Xin được nói về Hoàng Phủ Ngọc Tường như một thi sĩ của thiên nhiên” , qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông , ta lại càng thấm thía hơn câu nói ấy. Sông Hương đã đi vào văn học bằng những vẻ đẹp riêng biệt của mình , bằng ngòi bút đậm chất nghệ thuật của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường . Chính vì thế mà Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra là dành cho Huế, bởi từ lâu anh đã làm một mảnh hồn thân thuộc của Huế rồi. Xin được mượn những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo để người đọc nhớ về về "người thi sĩ thiên nhiên" và những áng văn của ông :

Sao thèm một điệu gì xưa lắm

Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường

Có ai đó rót chiều vào chén ngọc

Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.

Vợ nhặt

Nếu coi tác phẩm văn học là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung thì người nghệ sỹ cần phát huy tài năng xuất chúng của mình để làm nên một tác phẩm hay. Mỗi một tác phẩm văn học hay và tạo trong lòng độc giả một địa vị nhất định thì đều ẩn chứa những điểm sáng tuyệt vời. Người nghệ sỹ tài năng là người biết nắm bắt và đưa vào tác phẩm những điểm sáng tuyệt vời đó. Viết về đề tài người nông dân, ta từng biết đến một lão Hạc nghèo khổ, bất hạnh nhưng lại có tâm hồn đẹp trong tác phẩm “Lão Hạc” – Nam Cao. Hay một ông Hai tràn đầy tình yêu làng quê, đất nước trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân. “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi cũng viết về người nông dân với những mất mát hi sinh. Song phải đến “Vợ nhặt” viết sau 1954, người ta mới cảm nhận đến tận cùng sự xót thương về một thảm cảnh khốc liệt – nạn đói 1945.

​Vợ nhặt được coi là một trong những sáng tác tiêu biểu tạo nên tên tuổi của Kim Lân. Bằng những ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện hết sức chân thật, câu chuyện đã thể hiện sự cảm thông của tác giả với những con người đang bị rơi vào bước đường cùng của cuộc sống nhưng có khát vọng sống và khao khát hạnh phúc đến mãnh liệt. Chính tinh thần đó của tác giả đã làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm. Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó.

Năm Ất Dậu 1945 được ghi vào lịch sử của nước nhà với sự khủng khiếp của nạn đói. Người dân khắp nơi đều chịu cảnh đói quay quắt ấy, người chết đói la liệt, người sống thì xanh xám, dật dờ như những bóng ma. Mẹ con cu Tràng cũng đang chịu cảnh đói cũng với bao người khác trong làng quê nghèo nàn ấy. Gia cảnh của Tràng được hiện lên qua ngòi bút miêu tả của nhà văn thật đáng thương. Tìm hiểu vào tác phẩm ta thấy Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt bụng, sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp. Tràng là dân ngụ cư nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê. Anh sống với mẹ già, gia cảnh nghèo túng. Cái được gọi là “nhà” thì luôn “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhộn những búi cỏ dại”. Đã vậy Tràng lại có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Ngay đến cả tên gọi cũng là tên gọi của một loại đồ vật dùng trong nghề mộc. Với vài nét bút phác họa đơn giản, Tràng hiện lên có phần giống với những thằng đần, thằng ngốc trong truyện cổ tích. Nhưng Kim Lân không có ý định viết truyện cổ tích với thằng đần, thằng ngốc mà ông đang kể về một sự thật, một sự thật đắng lòng về cái đói và tình người năm đói. Thật ra hôm đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng biết, người như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò cùng anh”. Tràng hò để xua đi nỗi mệt nhọc trong người và chẳng có ý trêu ghẹo ai cả. Ai ngờ có người đàn bà đói đến xông xáo đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận với câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp lại cái “cười tít mắt của Thị” bởi “từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu”.

Hôm sau gặp lại khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng xỉa với hắn “điêu, người thế mà điêu”. Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách: “Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa”. Thấy người đàn bà rách rưới thảm hại, Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn ăn rất nhiều “bốn bát bánh đúc”. Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuôn đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi ai ngờ Thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết “thóc gạo này đến cái thân mình chẳng biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất tại thời điểm đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi “Chậc kệ”. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho hạnh phúc gia đình.

Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khát khao hạnh phúc và có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình. Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc “bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con để đựng vài thứ lặt vặt”, Tràng con hào phóng “mua hai hào dầu để thắp sáng”. Trên đường về, hôm nay Tràng có niềm vui lạ, một niềm hạnh phúc tràn ngập khiến mặt Tràng cứ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Lúc thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia, lại muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng. Kim Lân đã cho người đọc thấy được sự biến chuyển tâm lí của Tràng. Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng lúc đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau tràng lại tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật “hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.

Trong lúc chờ mẹ về, tràng nóng ruột đi đi lại lại. Chưa bao giờ người ta thấy hắn nôn nóng như thế. Khi mẹ về hắn mừng rỡ ríu rít như trẻ con, Tràng nóng lòng thưa chuyện với mẹ, bắt mẹ ngồi lên giường để thư chuyện. Đến đây ta thấy Tràng hiện lên không còn nông cạn nữa, Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là việc hệ trọng của cả một đời. Với hắn đây là giây phút thiêng liêng và trọng đại. Khi được mẹ đồng ý Tràng thở đánh phào một cái nhẹ nhõm người. Thế là Tràng đã có gia đình, có vợ, không tốn tiền cưới hỏi, Tràng lấy vợ thật hiển hách.

Tràng có khát vọng sống mãnh liệt, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ chín chắn. Nhà văn đã mang đến cho người đọc hơi thở mới của Tràng vào sau cái đêm tân hôn. Tràng thức dậy, thoạt tiên đó là cảm giác dễ chịu “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Đó là tâm trạng hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy vợ và mẹ dọn dẹp lại nhà cửa, nhất là khi nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một niềm vui sướng, phấn trấn đột ngột tràn ngập trong lòng “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của nhà lạ lùng”. Khi tiếng trống thuế ngoài đình vang lên rộn rã, thúc giục, Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi và phút chốc trong đầu Tràng vụt lên suy nghĩ “Cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên con đê Sộp” cùng hình ảnh “lá cờ đỏ bay phấp phới” đi phá kho thóc của Nhật như dẫn Tràng mở đường vào một bước ngoặt mới trong cả nhận thức tưởng tượng và con đường đi lên.

Xây dựng nhân vật Tràng, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo để từ đó toát lên vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của nhân vật. Đó là tình thương yêu, niềm khát khao hạnh phúc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng. “Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”.

Ngoài xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện trong tác phẩm vừa là hiện thân cho số phận khốn khổ của người dân trong nạn đói, vừa ánh lên nhiều vẻ đẹp đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Trước hết, người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”, nhưng lại là một nhân vật có vai trò đặc biệt quan trọng trong tác phẩm. Việc không đặt tên cho nhân vật là một dụng ý của tác giả làm tăng thêm tính khái quát cho hình tượng. Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hy vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ. Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: “người phụ nữ gầy vêu vao”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Miếng ăn ngày đói đã khiến con người thành ra vẻ rẻ rúng bèo bọt và đáng thương đến vậy. Nhưng phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Nghe những lời nói đùa của Tràng, thị đã tưởng thật hay cố tình tưởng thật mà theo không Tràng về làm vợ. Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ vì mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra tất cả hành động cử chỉ và lời nói của thị đều xuất phát từ bản năng sinh tồn, khao khát sống vốn có của mỗi người. Khi cái chết và cái đói đang cần kề người ta không còn để ý gì đến danh dự của mình nữa. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Phía sau vẻ nhếch nhác, chao chát, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, tế nhị, biết điều. Kim Lân đã cố ý đưa vào lời nói của thị một từ mang hàm ý độc đáo “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì”, “Ừ ăn thì ăn sợ gì”. Qua những lời nói đó người đọc cảm nhận được sự ngượng ngùng xấu hổ của cô gái, chị như đang cố gắng che giấu đi sự ngượng ngùng ấy trong cách nói tưởng như bạo dạn và chỏng lỏn. Hai tiếng “sợ gì” góp phần cho người đọc thấy rõ hơn tình thế khốn khổ của cô gái đồng thời cho ta cảm nhận được chút lòng tự trọng đáng thương của cô. Trên đường về nhà chồng, tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, chọc ghẹo của người dân ngụ cư thị ngượng nghịu “chân nọ bước díu cả vào chân kia”, “đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Về đến nhà chồng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao. Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường “Ngồi mớm” là thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ. Chi tiết cho ta thấy sự ngượng ngùng pha lẫn tâm trạng lo lắng, thấp thỏm của cô gái. Khi bà cụ Tứ về thị cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”. Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. Sáng hôm sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị. Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”. Khi đón bát cháo cám của bà cụ Tứ, hai con mắt thì tối lại nhưng chị vẫn “điểm nhiên và vào miệng”. Hành động của thị không làm cho mọi người phải khó xử, nó là kết quả của một nhận thức chín chắn, sâu sắc và một nhân cách đáng trân trọng. Thị xác định phải đồng cam cộng khổ với mọi người trong gia đình cùng nương tựa vào nhau để vượt qua cơn đói khổ. Không chỉ vậy, thị còn đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường cách mạng phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo. Bút pháp tả thực khắc họa chân dung nhân vật một cách chân thực sinh động. Xây dựng nhân vật thông qua những chi tiết ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động đặc biệt là tâm lý nội tâm nhân vật. Ngôn ngữ trần thật sinh động, hấp dẫn gần với lời ăn tiếng nói của người dân lao động.

“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng, Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Hình tượng người vợ nhặt là hiện thân cho số phận bi thảm của người lao động nghèo khổ trong nạn đói 1945, đặc biệt là số phận của người phụ nữ trong hoàn cảnh ấy.

​Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Dưới ngòi bút tài hoa và tinh tế của nhà văn vốn một đời đi về với ruộng đồng, vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của trái tim người mẹ và tình mẫu tử thiêng liêng cũng ngời lên trọn vẹn và sâu sắc qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ. Xuất thân và số phận của bà cũng như bao người dân khác trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, sống với người con trai là anh Tràng ở xóm ngụ cư. Bà có một cuộc đời bất hạnh, trải qua nhiều đau khổ và mất mát: chồng chết, đứa con gái út cũng đã chết. Ngoại hình của bà được tái hiện với “dáng đi lọng khọng”, “tiếng ho húng hắng”, “bước những bước lập cập vào nhà”, “hai con mắt kèm nhèm lúc nào cũng hấp háy”. Nhà văn sử dụng nhiều từ láy để khắc họa hình ảnh người phụ nữ già nua, ốm yếu, đáng thương và tội nghiệp. Vẻ đẹp của bà cụ Tứ hiện lên trước hết bà là một người hiểu đời hiểu người từng trải và hay lo hay nghĩ. Bà cụ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng, tuy đã già nhưng bà vẫn còn minh mẫn và tinh tường lắm. Vì là một người từng trải và hiểu đời nên bà cụ rất ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của người đàn bà xa lạ trong nhà mình. Đi đến giữa sân bà đứng sững lại. Bà hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn để nhìn rõ hơn. Bà tự vấn rồi lại tự trả lời: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?” Bà ngạc nhiên như vậy bởi bà hiểu rõ hơn ai hết tình cảnh của con trai mình, càng hiểu rõ hoàn cảnh bấy giờ, nên bà không thể nào tin được con trai mình đã có vợ. Khi đã hiểu rõ mọi cơ sự bà “cúi đầu nín lặng” như đang cố giấu, cố giữ cố kìm nén cảm xúc, “bà hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự”. Những ý nghĩ này như mách bảo bà mối duyên kiếp kia hình như không nên. Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nhân hậu và giàu lòng trắc ẩn.“Bà lão khẽ thở dài ngẩng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà” đây là một hành động diễn tả sự lắng xuống của những cảm xúc ban đầu và cái nhìn chất chứa biết bao suy nghĩ. Bà đồng cảm với nỗi tủi hổ, bối rối của một người phụ nữ phải theo không một người đàn ông “Thị cúi mặt xuống tay vân vê tà áo rách bợt”. Bà thấu hiểu và thương cảm cho hoàn cảnh khốn cùng của chị, vì cái đói quăng quật, cái chết đe dọa nên phải chấp nhận thân phận làm vợ nhặt. Không chỉ vậy, bà còn biết ơn người con dâu “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến mình. Mà con mình mới có vợ được.” “Người ta” và “con mình” rõ ràng bà đã đề cao “người ta” hơn. Trong hoàn cảnh này, bà cụ Tứ hoàn toàn có quyền xét nét, coi thường con dâu bởi Thị chỉ là một người phụ nữ theo không con trai bà. Nhưng bà không hề khinh miệt mà còn cảm thông và trân trọng. Đó không chỉ là tình cảm của một người mẹ mà còn là sự đồng cảm của những con người cùng cảnh ngộ. Bà cụ Tứ còn là một người mẹ rất mực yêu thương con. Bà xót xa về gia cảnh của mình nghèo khó “Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…” Dấu ba chấm kéo dài câu văn như một tiếng thở dài khe khẽ. Bà tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ. Với người phụ nữ Việt Nam nào đâu chỉ có việc mang nặng đẻ đau, nuôi con trưởng thành, mà còn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo được tấm chồng, cô vợ cho con thì chết không nhắm mắt được. Với quan niệm truyền thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy tâm sự. Trong lời độc thoại ở trên, bà đã thầm so sánh “người ta” với “mình”, nghĩ đến người ta, bà thấy tủi thân mình, vì người ta giàu có, có của ăn của để lo được cho

con, còn bà thì có “dăm ba mâm cơm” cũng không lo được cho con. Rồi bà xót thương cho “số kiếp đứa con mình” vì bà hiểu rằng con trai bà không được may mắn như con nhà người. Người mẹ nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài của câu chuyện, để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Lòng bà ngổn ngang trăm mối, chồng chất bao nỗi niềm suy tư. “Kẽ mắt kèm nhèm” là hiện hình của bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi, là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng. Từ “rỉ” miêu tả giọt nước mắt ít ỏi, khó khăn. Dường như bà cụ Tứ đang phải kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu tủi phận, cay đắng, xót xa như nghẹn lại trong lòng khiền bà không thể khóc. Viết về hình ảnh “giọt nước mắt”, Nguyễn Khuyến trong bài Khóc

Dương Khuê cũng có câu:

“Tuổi già như hạt lệ sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”

hay Nam Cao khi miêu tả nước mắt của Lão Hạc “Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”. Những năm tháng trải đời với biết bao cay đắng khiến cho họ dù đau đớn nhưng cũng đã cạn khô nước mắt, chai sạn với cuộc đời nên những dòng nước mắt chỉ là sự “rỉ” ra hiếm hoi mà thôi. Hơn nữa, trước hiện thực xã hội, bà còn lo lắng cho tương lai của các con: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?” Nỗi lo lắng ấy và nước mắt bao lần chảy xuôi chính là lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ Việt Nam. Bà cụ Tứ còn là một người tinh tế, tâm lý, luôn lạc quan vui vẻ và hạnh phúc. Điều này được bộ lộ qua câu nói: “Ừ! thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Mẹ chỉ “mừng lòng” chứ không phải là “vui lòng”. Vì “vui lòng” chỉ là một lẽ đồng ý giản đơn, còn “mừng lòng” là có cả sự vui mừng và mãn nguyện. Nhưng chính câu nói ấy đã xua tan nỗi phấp phỏng lo âucho Tràng, xóa đi nỗi bẽ bàng, lo sợ cho người con dâu, thổi vào tâm hồn đôi trẻ một luồng gió mới và mở ra một hạnh phúc trong tầm tay. Bà cụ khuyên nhủ, động viên con, tràn đầy niềm lạc quan“Qua khỏi tao đoạn này…” Trên con đường mới của vợ chồng Tràng bà không cho các con được một chút tài sản nào, nhưng bà đã truyền cho các con một giá trị tinh thần quý giá. Sáng hôm sau, bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa, chuẩn bị bữa cơm sáng. Gương mặt bủng beo, u ám hằng ngày của bà cũng rạng rỡ hẳn lên. Bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau để tạo ra không khí đầm ấm, yên vui trong gia đình. Bữa cơm mừng cô dâu mới, mỗi người chỉ có hai lưng cháo loãng húp vội, ăn với rau chuối thái rối và muối trắng. Ăn xong, bà cụ Tứ lật đật chạy xuống bếp bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Đó là nồi cháo cám mà bà gọi là chè khóan. Bà lấy cho các con ăn với gương mặt tươi cười, đon đả. Nồi cháo cám đắng ngắt biến thành nồi chè khoán thơm ngon, ngọt lành. Đó là hương vị tỏa ra từ tấm lòng thương con của bà mẹ nghèo. Nụ cười của bà cụ Tứ đã đem đến niềm tin, niềm hi vọng cho các con. Nó đã xóa dịu đi nỗi tủi hờn của bữa cơm ngày đói. Bà cụ Tứ là người nhiều tuổi nhất trong truyện nhưng lại là người nói đến tương lai và hạnh phúc nhiều nhất. Chăm lo vun vén cho hạnh phúc của các con chính là lẽ sống của người mẹ nghèo khổ ấy.

Kim Lân đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, đặt nhân vật trong tình huống bất ngờ, éo le để bộc lộ vẻ đẹp, phẩm chất. Bút pháp tả thực khắc họa chân dung nhân vật một cách chân thực sinh động. Xây dựng nhân vật thông qua những chi tiết ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động đặc biệt là tâm lý nội tâm nhân vật. Chi tiết nghệ thuật “giọt nước mắt” tiêu biểu, đắt giá. Ngôn ngữ trần thật sinh động, hấp dẫn gần với lời ăn tiếng nói của người dân lao động. Bà cụ Tứ, Tràng, Thị có lẽ sẽ không đi vào bước đường cùng như chị Dậu, Chí Phèo hay anh Pha bởi trước mắt họ là màu đỏ của Cách mạng. Tác phẩm được viết sau Cách mạng tháng Tám, ra đời khi Kim Lân đã chứng kiến cuộc tái sinh màu nhiệm của cả dân tộc mà Cách mạng mang tới. Cách mạng, Việt Minh là những khái niệm mơ hồ đối với những người như Tràng nhưng đó làn nguồn sáng là tương lai của cả dân tộc.

Kết thúc của truyện ngắn là kết thúc mở, cho phép người đọc có quyền liên tưởng đến những tương lai khác nhau của các nhân vật. Có nhiều đáp số cho bài toán về cuộc đời các nhân vật. Nhưng có lẽ sẽ nhất nhiều người nghĩ đến một tương lai tươi sáng cho số phận các nhân vật dù rằng họ vẫn phải sống trong hoàn cảnh tột cùng thê thảm.

Trong truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao viết: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có". Cùng với chất liệu của đề tài làng quê Việt Nam, nơi những tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… đã khai thác tưởng chừng ở mức thấu triệt, song cũng trên mảnh đất xưa cũ ấy nhà văn Kim Lân cũng đã xây cho mình ngôi nhà rất riêng, rất vững giữa lòng người và thách thức với thời gian. Và Vợ nhặt của Kim Lân sẽ mãi là một tác phẩm đặc biệt như thế! 

Xem thêm: Ôn thi tốt nghiệp THPT: Vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận