Thảm án Lệ Chi Viên: Giai thoại 'rắn thành tinh' gán tiếng xấu cho nữ sĩ nào suốt hơn 5 thế kỷ qua?
Thảm án Lệ Chi Viên không chỉ khiến vua Lê Thái Tông băng bà mà còn là cái kết đầy uẩn ức cho gia tộc hơn 400 người của Nguyễn Trãi và 1 nữ sĩ bị gán tiếng "rắn thành tinh".
Thảm án Lệ Chi Viên theo 3 nguồn chính sử
Thảm án Lệ Chi Viên (hay kỳ án Lệ Chi Viên hoặc vụ án vườn vải) là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê Sơ. Qua án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ bị triều đình Lê Sơ kết tội giết vua Lê Thái Tông, bắt tội chém đầu đến 3 họ nhà Nguyễn Trãi. Riêng vợ ông, bà Nguyễn Thị Lộ bị nhốt vào rọ, dìm chết ở sông Hồng.
Nói về diễn biến vụ án này có 3 nguồn chính sử đề cập đến là Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục và Lịch triều hiến chương loại chí.
Đại Việt Sử ký toàn thư có chép: Ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 (âm lịch) vua về đến Lệ Chi viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40 (bà sinh năm 1400) được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sự xinh đẹp, có tài văn chương, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất.
Các quan bí mật đưa về, ngày 6 tháng 8 (âm lịch) mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Ngay sau khi Thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt Nguyễn Trãi tru di tam tộc vào ngày 16 tháng 8 (âm lịch) năm này.
Trong Khâm Định Việt sử thông giám cương mục ghi như sau: Tháng 7 âm lịch, Lê Thái Tông tuần hành phía đông, duyệt võ ở Chí Linh, Nguyễn Trãi đón mời, nhà vua đến chơi chùa núi Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Thị Lộ, vợ lẽ của Nguyễn Trãi, người đẹp mà lại hay chữ. Nhà vua nghe tiếng, trước đây từng mời đến, phong làm Lễ nghi học sĩ; ngày đêm cho hầu ở bên, nhân đó, sàm sỡ với Thị Lộ. Trong đợt đi tuần phía đông, Thái Tông quay về đến trại Vải làng Đại Lại, huyện Gia Định, thì mắc chứng sốt rét. Thị Lộ vào hầu suốt đêm, nhà vua mất.
Trăm quan giấu kín việc này, lặng lẽ rước ngự giá về kinh đô mới phát tang. Người ta đều nói Thị Lộ giết vua, bèn bắt giết Thị Lộ. Ngay sau khi Thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt và giết Nguyễn Trãi, tru di cả họ. Người ta đều cho là oan.
Theo Lịch triều hiến chương loại chí: "Năm 1442, Nguyễn Trãi 63 tuổi, vợ Nguyễn Trãi là Thị Lộ, vào hầu vua, dùng chất độc giết vua, triều đình kết án phải giết ba họ".
Nỗi oan của nữ học sĩ tài danh
Trong 3 cuốn chính sử này, Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cùng thống nhất xác nhận Lê Thái Tông bị bạo bệnh mà qua đời, và sau khi thi hài Lê Thái Tông được đưa về kinh đô thì Nguyễn Thị Lộ bị mọi người đồng loạt buộc tội giết vua. Riêng Lịch triều hiến chương loại chí xác nhận Nguyễn Thị Lộ dùng thuốc độc giết vua. Vậy đâu mới là sự thật?
Câu hỏi này đến tận ngày nay vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ của giới sử học Việt Nam và cũng đã từng gây không ít tranh cãi. Dù cho sau vụ án đó vài thập kỷ, thậm chí Lê Nhân Tông - con trai vua Lê Thái Tông đã lên tiếng đính chính cho rằng Nguyễn Trãi bị oan, sau khi đọc sách Dư địa chí do đại công thần này viết và đã có hành động ban chiếu minh oan. Nhưng sách cũng hoàn toàn không đề cập tới Nguyễn Thị Lộ, vậy liệu có phải vị vua này đã ngấm ngầm đồng ý với việc Lộ giết chết tiên đế không?
Vẫn còn một giả thuyết khác cho rằng, người lập ra âm mưu giết vua này là Nguyễn Thị Anh - phi tần của Lê Thái Tông và là mẹ đẻ của Thái tử Ban Cơ, tức là vua Lê Nhân Tông sau này. Bởi lẽ, sử liệu cho rằng vợ chồng Nguyễn Trãi hay bảo vệ bà Lê Thị Ngọc Dao - một phi tần khác của Lê Thái Tông, cũng như đứa con trong bụng Ngọc Dao - người mà bà Nguyễn Thị Anh lo ngại sẽ đe dọa đến ngôi vị của con trai mình.
Trong thời điểm đó, thân thế thật sự của Thái tử Bang Cơ cũng bị đồn đại rất nhiều. Người ta nói rằng, Bang Cơ là con của bà Nguyễn Thị Anh mang thai cùng người đàn ông trước khi vào cung, không phải con vua Lê Thái Tông.
Thế là nhân lúc Bnag Cơ còn tại vị Thái tử, bà Nguyễn Thị Anh liền lập mưu giết vua, cùng với đó là giết luôn cả vợ chồng Nguyễn Trãi, như một mũi tên trúng hai con nhạn. Vua chết, Bang Cơ nghiễm nhiên theo di chiếu mà lên ngôi, lấy hiệu Lê Nhân Tông. Nhưng thật ra người nắm quyền hành chính lúc bấy giờ là Nguyễn Thị Anh, bởi Bang Cơ khi ấy chỉ mới có 2 tuổi.
Sau này, khi Bang Cơ trưởng thành, ông nhận ra Nguyễn Trãi và gia tộc bị hàm oan nên đã lập chiếu minh oan. Còn Nguyễn Thị Lộ, ông không nhắc gì đến.
Phải chăng, nếu nói ra bà Thị Lộ cũng bị oan, thì tức là vua cha bị giết bởi một thế lực khác, vụ án sẽ tiếp tục là một ẩn số, và ai mới là người giết vua thực sự?
Giai thoại "rắn thành tinh" gắn tiếng xấu cho Nguyễn Thị Lộ suốt 5 kỷ?
Trong mắt các nhà Nho, từ Ngô Sĩ Liên đến Phan Huy Chú, Nguyễn Thị Lộ là hung thủ duy nhất gây nên cái chết của vua Lê Thái Tông lẫn Nguyễn Trãi. Được biết, Ngô Sĩ Liên là người chép việc Lê Thánh Tông sai tìm di cảo Nguyễn Trãi, cũng chính Ngô Sĩ Liên là người chép lại các tình tiết của vụ án vườn vải. Việc minh oan cho Nguyễn Trãi, không đi liền với việc minh oan cho Nguyễn Thị Lộ mà ngược lại, mọi tội lỗi đều đổ hết lên đầu người phụ nữ này.
Theo báo Công an nhân dân, Ngô Sĩ Liên có bình luận như sau: "Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?”. Phan Huy Chú cũng bình: “[Nguyễn Trãi] về già muốn an nhàn, không có ý tham luyến [địa vị], chỉ vì nghiệp báo của yêu nữ, cuối cùng lụy đường công danh, bấy giờ ai cũng thương tiếc”.
Hà Nhậm Đại trong Thiên Nam thi tập (soạn năm 1574) ghi lại rằng: “Nguyễn Thị Lộ vụng biết văn học, tính khá dâm dật, vào hầu, Thái Tông bái làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu bên mình. Đến khi vua Đông tuần, về đến Lệ Chi viên huyện Gia Định, cùng Thị Lộ nằm nghỉ, rồi mất. Bọn đại thần Trịnh Khả, Nguyễn Xí đưa thái tử lên ngôi, cho rằng Thị Lộ giết vua, bèn giết chết. Liên lụy đến Nguyễn Trãi, tru di tam tộc, thu ruộng nhập vào quan điền.
Đến thời Hồng Đức, mới giao lại đất, tái dùng lại con cháu, phong Trãi làm Tế Văn Hầu. Đời truyền rằng, quê Trãi có gò lớn, trên gò có con rắn lớn, thường làm hại dân. Tổ của Trãi khi dạy học, bèn lập kế giết chết rắn. Đến khi Trãi lấy Thị Lộ, dưới bụng Lộ có ba vảy, gây họa cho Trãi. Người ta cho rằng đó là rắn báo oán... Lại có thơ rằng: “Lòng ngời khuê tảo miệng làm thơ, Chính đốn càn khôn một thưở xưa. Vợ hiền xưa nay chồng ít họa, Rắn độc kia sao dám cắn bừa?” (ký hiệu A.315, tr.18a-19b).
Đến đầu thế kỷ XIX, Phan Huy Chú có ghi lại truyền thuyết "rắn thành tinh" (rắn báo oán) với những bổ sung chi tiết hơn: "Đời truyền rằng trong gò lớn ở làng ông có con rắn lớn. Chỗ ấy cây cối um tùm, người làng không dám chặt. Người ông nội của ông thích về phong thủy, mới dựng nhà học trên đó, sai người nhà chặt cây dọn dẹp, nhỡ giết phải con rắn ấy. Con rắn thành tinh ngầm mang thù oán, mới đầu thai vào Thị Lộ. Nàng sinh ra dưới sườn có vảy. Ông lúc nhỏ đi đường gặp nàng ở Vũ Lăng, yêu về tài sắc mới lấy làm vợ. Khi ông lo việc nước, những chiếu thư, từ mệnh nàng đều được dự nhuận sắc.
Vua Lê Thái Tông nghe tiếng, vời nàng vào hầu cho làm Lễ nghi học sĩ. Bấy giờ ông đã già, muốn về dưỡng nhàn ở Côn Sơn, mấy lần xin không được. Mới lưu nàng lại hầu vua, vua mới cho. Ngày vua đi Đông tuần, nàng hầu đêm, bỗng vua chết một cách bất ngờ. Kịp khi kết tội, lâm hình, Thị Lộ chạy gieo mình xuống nước, người ta cho là rắn báo oán” (tr.935) Sách Nhị Khê thế gia phả (gia phả nhà Nguyễn Trãi, bản sưu tầm cá nhân) kể lại câu chuyện này với nhiều tình tiết dài đến vài trang.
Có thể tóm tắt như sau: Nguyễn Trãi sai học trò phát cỏ dựng trường, học trò cuốc đứt đuôi rắn, đập vỡ một trứng, đem 2 trứng vào khoe ông. Trứng nở ra rắn con, lớn nhanh như thổi. Sau đó rắn quay lại quấy phá. Nguyễn Trãi bèn ném đá chết con rắn, lấy mỡ rắn làm dầu đèn. Đêm, khi đang đọc sách, Nguyễn Trãi thấy một giọt máu từ nóc nhà rơi xuống, thấm xuyên ba tờ giấy, ông giật mình kêu: “mày oán ta ba đời ư?”.
Về sau, Nguyễn Trãi lấy "yêu nữ Nguyễn Thị Lộ, không có con". Khi gặp vụ án Lệ Chi Viên, Nguyễn Thị Lộ lại bị hành hình, xin ra ngoài sông tắm rửa lần cuối, bỗng biến thành con rắn trắng bò xuống nước mà bơi đi mất. Từ đó thiên hạ đều hay chuyện rắn báo oán.
Các sử liệu nêu trên dù là chính sử, tư sử, dã sử hay truyền thuyết dân gian, đều có điểm tụ duy nhất: tập trung vào tội trạng và việc bình luận tội trạng của Nguyễn Thị Lộ. Ngô Sĩ Liên nhìn từ góc độ “nữ sắc làm hại người” như truyền thống chính trị Nho giáo: “Sắc bất ba đào dị nịch nhân”. Hà Nhậm Đại quy kết tội của Thị Lộ là do “tính vốn dâm dật”. Ông là người đầu tiên ghi chép chuyện rắn báo oán lưu truyền trong dân gian vào năm 1574 - sau vụ án hơn 130 năm.
Phan Huy Chú và Nhị Khê thế gia phả đều ghi lại những truyền bản sống động hơn, được thêm nếm vào các đời sau. Tựu trung đều cho rằng, Nguyễn Thị Lộ là một “yêu nữ” - là một loại rắn biến hình thành người, là loại rắn có nọc độc làm hại người: “Thái Tông yêu nó mà chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà chết cả ba họ”.
Phải đến đời Nguyễn, các sử gia mới thoát ra khỏi nhãn quan cũ, lời bình như sau: “Đời Lê Thái Tông, vua thì buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. (Nguyễn) Trãi nếu là người hiền thì nên sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích để cho danh tiếng được toàn vẹn. Thế mà lại đi đón rước ngự giá, thả lỏng cho người vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ. Vậy thì cái vạ tru di cũng là tự (Nguyễn) Trãi chuốc lấy. Như thế sao được gọi là người hiền?” (Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, Q.17, tr.23).
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận