Chuyện về Đình Gia Miêu - nơi phát vương triều Nguyễn

Đình Gia Miêu là công trình tiêu biểu của kiến trúc triều Nguyễn tại xứ Thanh. Đây cũng là nơi phát vương của triều Nguyễn.

Chuyện về Đình Gia Miêu - nơi phát vương triều Nguyễn

Đình Gia Miêu là công trình tiêu biểu của kiến trúc triều Nguyễn tại xứ Thanh. Đây cũng là nơi phát vương của triều Nguyễn.

Sử chép rằng, vào năm 1822, vua Minh Mạng trong một lần về bái yết đã làm bài minh, mở đầu với những câu"Đất chứa khí thiêng sinh ra Triệu tổ/Vun đắp cương thường tỏ rõ thánh võ...”, ca ngợi công đức của Nguyễn Kim (1468 -1545), tổ của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn sau này. 

Kiến trúc tinh xảo của Đình Gia Miêu

Gia Long (1762 - 1820) có tên húy là Nguyễn Phúc Ánh. Ông là con trai thứ 3 của vương tử Nguyễn Phúc Luân và bà Nguyễn Thị Hoàn. Khi còn nhỏ, ông có tên là Nguyễn Phúc Chủng và Noãn. Ông sinh đúng thời điểm Đại Việt bị chia làm hai, lấy ranh giới sông Gianh (Quảng Bình) làm mốc chia. Ở Đàng ngoài do vua Lê - chúa Trịnh cai quản. Ở Đàng Trong nằm dưới bàn tay của chúa Nguyễn.

Đến năm 1802, sau rất nhiều biến cố và sự xoay vần lịch sử, Nguyễn Ánh thống nhất hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, quốc hiệu là Việt Nam. Sau một năm lên ngôi, nhân chuyến tuần thú Bắc Hà, vua Gia Long tìm về đất tổ Gia Miêu ngoại trang yết bái tổ tiên, truy tôn Nguyễn Kim là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế. 

Đình Gia Miêu là công trình tiêu biểu của kiến trúc triều Nguyễn tại xứ Thanh

Gia Long đế đã cho đắp nền Phương Cơ, dựng lăng Trường Nguyên (lăng Triệu tường) thờ Triệu tổ ngay dưới chân núi Thiên Tôn. Đình Gia Miêu cũng được xây dựng cùng lúc để tri ân quê gốc của vương triều Nguyễn.

Đình được dựng trong khu đất gần 400m2, quay hướng Tây Nam. Đình Gia Miêu là nơi thờ tự thành hoàng Nguyễn Công Duẩn và những bậc thánh nhân. Đình cũng nằm dưới chân núi Thiên Tôn, nơi được coi là vùng núi thiêng, phát tích của vương triều Nguyễn. 

Các vị cao niên cho biết, trải qua nhiều biến cố lịch sử, đình Gia Miêu là ngôi đình hiếm hoi không bị tàn phá nhiều và còn giữ được hầu như nguyên vẹn kiến trúc quý giá đặc trưng của triều Nguyễn. Mái đình mở rộng trong khi các đầu đao lại vút lên trông tựa như một con thuyền gây ấn tượng mạnh với nhiều du khách. Đình được xây dựng theo kiểu chữ Đinh, với hai tòa Đại đình và Hậu cung. 

Tòa Đại Đình có 5 gian chính, 2 gian chái (tổng 7 gan). Bờ nóc đình có trang trí "lưỡng long chầu nguyệt". Các hoa đao nhấp nhô, đường mái uốn lượn như những cánh sóng, tạo cảm giác chuyển động trên nền của một không gian tĩnh.

Ở đây, các nghệ nhân dân gian đã sử dụng nghệ thuật chạm khắc để tạo ra các mảng kiến trúc dày đặc trên các bộ phận của đình như nóc, đầu các xà... Đề tài chính trên các vì kèo, chủ yếu là các linh vật, nổi bật từ tứ linh là hình tượng con rồng. 

Rồng trong vân mây, có khúc đuôi cuộn tròn, với hình thức dữ dội, lông mày hình răng cưa, mắt lồi, trán dô, miệng ngậm chữ thọ (ở vì kèo đầu hồi). 

Hình chim phượng dưới dạng cụp cánh hoặc dạng mái xòe hai cánh trước sau (loại này được trang trí trên các cốn mê).  Hình lân dưới dạng lân-long-mã kết hợp được trang trí chủ yếu trên các kẻ bẩy và cả những bức cốn mê. Còn hình Rùa được chạm khắc rõ nét nằm dưới một hình lá sen úp ngược trong hồ nước. 

Ngoài ra, còn có thú vật khác như hươu, chim sẻ, thạch sùng, cũng được điểm xuyết trong tổng thể một bức tranh đa dạng trên các bức cốn mê hay kẻ bẩy. Các con vật này được chạm khắc rất thực.

Hình tượng lá cúc cách điệu, lá sen được chạm khắc phổ biến trong toàn bộ trang trí nội thất ngôi đình. Từ đó làm tăng thêm tính uyển chuyển, mềm mại của toàn bộ công trình.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, kết cấu kiến trúc nghệ thuật trang trí của đình Gia Miêu có mối quan hệ hữu cơ thống nhất. Hậu cung 2 gian mới được tu bổ lại. Về cấu trúc nó gắn hữu cơ với Đại đình, tạo nên một không gian thống nhất mà ta thường thấy trong kết cấu kiến trúc các đình làng ở nước ta thế kỷ XIX.

Vùng đất phát vương của nhà Nguyễn

Gia Miêu ngoại trang xưa thuộc tổng Thượng Bạn (huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa, nay là xã Hà Long, huyện Hà Trung, Thanh Hóa). Đây là nơi phát tích của vương triều nhà Nguyễn. Người ta nói, “Gia Miêu” có nghĩa là “lúa tốt”. Dân gian còn thường gọi nơi đây là vùng đất quý hương.

Đây là vùng đất quý hương bởi những câu chuyện liên quan đến việc hình thành và phát triển của vương triều Nguyễn. Sử chép, năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập nên triều Mạc. Một số cận thần của nhà Lê chạy qua Ai Lao, trong đó có An Thành hầu Nguyễn Kim. Về sau, Nguyễn Kim tìm được con vua Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh ở Thanh Hóa mang sang Ai Lao lập làm vua, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa (vua Lê Trang Tông, trị vì từ 1533 - 1548), khởi đầu sự nghiệp trung hưng nhà Lê. 

Nhờ công đó mà vua Trang Tông tin dùng, phong Nguyễn Kim là Thượng phụ Thái sư, Hưng Quốc công Trưởng nội ngoại sự để phò tá giúp diệt Mạc, lấy lại cơ nghiệp. Nhưng tiếc thay,  tới năm 1545, Nguyễn Kim đã bị đầu độc và qua đời ở tuổi 78. Vua Lê thương tiếc, truy ban tước Chiêu huân Tĩnh công, dùng lễ hậu đưa thi hài về táng ở núi Thiên Tôn.

Khu di tích Lăng miếu Triệu Tường ở Gia Miêu

Đến nay, dân làng Gia Miêu vẫn truyền tai nhau câu chuyện huyền bí về đám tang Nguyễn Kim. Dân làng kể rằng, khi linh cữu Nguyễn Kim được đặt xuống huyệt trên núi Thiên Tôn thì trời nổi giông, sấm sét, miệng huyệt từ từ khép lại, mọi người kinh hãi chạy xuống núi. 

Một lúc sau, trời quang mây tạnh, mọi người đi lên chỗ quan tài thì chỉ thấy núi đá nhấp nhô, cây cỏ tươi tốt, không biết quan tài của Nguyễn Kim được an táng chỗ nào. 

Dân làng Gia Miêu cũng tin rằng, mộ của Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim được táng trúng miệng rồng, là nơi tụ hội khí thiêng sông núi, là huyệt đạo phát vương về sau. Bởi vậy mà mỗi lần các vua nhà Nguyễn về bái tế Triệu tổ đều chỉ biết trông lên núi Thiên Tôn mà bái vọng.

Theo một ghi chép còn lại thì tất thảy có 5 vị vua triều Nguyễn đã về Gia Miêu ngoại trang tế bái tổ tiên, gồm: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Thành Thái và Bảo Đại, trong đó vua Bảo Đại về nhiều lần nhất.

(Theo Pháp luật Việt Nam)

Xem thêm: Chùa Thiên Mụ "tụ linh khí, bền long mạch" - đó là thủ thuật chính trị của chúa Nguyễn Hoàng?