Đây thôn Vĩ Dạ - Giấc mơ về cuộc đời Hàn Mặc Tử

Trong "Đây thôn Vĩ Dạ", Hàn Mặc Tử đã đưa người đọc đi ngược từ quá khứ, xuôi đến hiện tại và hướng đến tương lai của đời mình.  

Đỗ Thu Nga
10:00 24/10/2023 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Quá khứ tươi đẹp

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh nhiều ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền"

Chữ "về" trong câu đầu tiên của khổ thơ gợi mở không chỉ một cuộc trở về mang ý nghĩa về mặt không gian (thôn Vĩ) mà còn gợi mở về mặt thời gian (quá khứ). Đó là sự trở về quãng thời gian tươi đẹp (đã qua) của Hàn Mặc Tử khi nhà thơ sống ở Huế, làm báo và quên Hoàng Cúc. Quá khứ tươi đẹp ấy được hiện lên bằng gam "màu xanh" chủ đạo. Toàn khổ thơ tràn ngập màu xanh. Màu xanh của hàng cau, màu xanh của ruộng vườn, màu xanh của lá trúc. Màu xanh, theo quan niệm của người phương Đông là màu của sự sống, màu của sức sống, màu của sự bình yên, thành thản. Ngoài ra sự xuất hiện của tia nắng trong câu thơ thứ 2 cũng là điều khiến chúng ta cần quan tâm. Ánh nắng có khởi thủy từ mặt trời. Mặt trời từ xưa đến nay, từ đông sang tây đều được coi là biểu tượng của khí dương, của một sự khởi đầu mới. Một ngày mới, một tương lai mới đều được ví von bằng sự xuất hiện của ánh sáng, của mặt trời. Với việc xuất hiện dày đặc của màu xanh (ba trên bốn câu), của ánh nắng báo hiệu vầng dương đang hé rạng trong khổ thơ, dường như Hàn Mặc Tử đã kín đáo bộc lộ niềm nuối tiếc về một quá khứ tươi đẹp chưa mấy cách xa. Đó là khoảng thời gian Hàn Mặc Tử còn là chàng trai yêu đời, đầy khát khao hoài bão với những câu thơ trong trẻo, lành mạnh nhưng không kém phần lãng mạn, táo bạo như:

"Xiêm áo hôm nay chỉnh tề quá

Dám ôm hồn cúc ở trong sương"

Ở khổ thơ này cũng không thể không bàn đến hình ảnh "lá trúc che ngang mặt chữ điền". Chiếc lá trúc thanh mảnh che khuất gương mặt chữ điền. Đó là khuôn mặt của ai, vì sao phải che ngang? Câu hỏi này đã làm bao người bình bài thơ phải lao tâm khổ tứ. Có thể nói đây là câu thơ tốn nhiều bút mực nhất của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Riêng chúng tôi, từ góc nhìn của phân tâm học cho rằng hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền là một personal (mặt nạ) của Hàn Mặc Tử trong giấc mộng trở về quá khứ: Dẫu là trong mông nhưng do vẫn bị ám ảnh về bệnh tật và hình hài (xấu xí, gớm ghiếc mà bệnh mang lại) nên Hàn Mặc Tử cần một vật để che chắn khuôn mặt thật của mình. Vật đó không có gì hợp hơn "chiếc lá trúc" và "mặt chữ điền". Lá trúc(cây trúc) tượng trưng cho người quân tử. Chữ điền tượng trưng cho sự khôi ngô, tuấn tú - hình dạng. Đây là hai điều mà mọi chàng trai đều mơ ước có được. Hàn Mặc Tử ở thời điểm viết "Đây thôn Vĩ Dạ"đã bị bệnh tật đánh cắp đi khuôn mặt và người đời ghẻ lạnh, lánh xa. Vậy nên trong hành trình ngược về quá khứ ấy, để tránh những phiền phức mang lại, cách tốt nhất là cải trang với lá trúc và khuôn mặt chữ điền.

Những kiến giải trên của chúng tôi có sự hợp lí nhất định trong khuôn khổ của phê bình phân tâm học nếu nhìn nhận từ mối quan hệ khổ thơ thứ nhấ và khổ thơ thứ 2. Đang từ quá khư tươi đẹp, sự xuất hiên của mặt nạ, dù đã mang ý đồ che chắn, nhưng vẫn gợi cho chủ thể Hàn mặc Tử về nỗi đau mình dang phải gánh chịu, Lập tức ý thơ quá khứ tươi đẹp vụt tắt, hiện tại tàn nhẫn ập tới bằng những lời thơ buồn bã. 

day-thon-vi-da-giac-mo-ve-cuoc-doi-han-mac-tu-7

Hiện thực ảm đạm

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Thời điểm hiện tại được đánh dấu bằng cụm từ chỉ thời gian “tối nay”. Như đã trình bày ở trên, hiện tại của Hàn Mặc Tử đượm một màu u tối. Các hình ảnh ở hai câu thơ đầu trong khổ đều biểu trưng cho sự không chắc chắn, không trốn nương tựa. Gió vô hình, mây vô dạng, dòng nước vô biên, tất cả đều không bờ không bến, không có một sự ổn định như các hình ảnh ở khổ một. Đã vậy những thứ vô hình, vô định dạng ấy lại không gắng bó chặt chẽ với nhau, chúng rời rạc và xa nhau như chưa từng gắng kết. Gió mây vốn quấn quýt với nhau nay chia xa. Dòng nước trôi buồn bã, hoa bắp lay nhẹ nhàng càng nhuốm vẻ ảm đạm, thê lương. Sự xuất hiện của ánh sáng cũng không làm tình hình sáng sủa hơn. Ánh sáng của nắng đã biến mất thay vào đó là ánh sáng của mặt trăng. Mặt trăng là biểu tượng cho khí âm, do đó ánh sáng phát ra từ mặt trăng gợi nhiều đến sự huyền ảo hơn là sức sống từ mặt trời, Khí dương mất, khí âm thịnh. Rõ rang đây là những dấu hiệu điềm báo không hay. Trong bối cảnh ấy, con người xuất hiện qua đại từ phiếm chỉ “ai” với lời khẩn cầu, mong ngóng, da diết: “Có chở trăng về kịp tối nay?” càng làm cho không gian nhuốm màu buồn.

Cũng viết về nỗi mong ngóng vầng trăng và con đò, trong “Bến My Lăng” , Yến Lan viết:

“Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng”

Chàng kị mã trong thơ Yến Lan dù “Gọi đò gọi đò như hối hả/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi” vẫn làm chủ được tình huống, vẫn còn có quyền (trách cứ) người lái đò mải “say trăng đầu gối sách”, còn tâm sự người gọi đò chờ đò trong khổ thơ này của Hàn Mặc Tử thật tội nghiệp, yếu đuối. Dường như con người ấy không còn biết bấu víu vào đâu, không còn biết tin ai trên cuộc đời này nữa. Có lẽ chỉ ở trong tâm trạng ấy, nhà thơ mới có sự mong ngóng, van vỉ với lời lẽ da diết làm thương cảm long người đến thế.

Hiện thực u ám đó đưa chủ thể lang bạt trong giấc mơ đến tương lai. Nhưng rất tiếc nó lại là...

Xem thêm: Bài văn 10 điểm thi Đại học về tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ"

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận