Tuổi thơ dùng lá chuối tươi luyện chữ của vị thám hoa được Càn Long tặng 18 cỗ quan tài
Trong số những vị thám hoa của nước việt, Phan Kính là người được triều đình phương Bắc nể phục nhất. Thậm chí, khi ông mất, vua Càn Long còn tặng 18 cỗ quan tài.
Sử chép, Phan Kính (1715-1761) tự là Dĩ Trực, hiệu Tĩnh Trai, quê làng Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh ngày nay). Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ nổi tiếng thông minh, tài giỏi. Hơn 3 tuổi đã thuộc nhiều ca dao, tục ngữ.
Thấy ông nhanh nhẹn, thông minh, bố Phan Kính cố gắng cho con đi học. Ông nhanh chóng thuộc nhiều sách sử đương thời. Vừa tròn 7 tuổi đã biết làm thơ phú.
Vào năm Nhâm Dần (1722), trong kỳ thi sát hạch ở xã Lai Thạch, bài văn của ông được xếp hạng nhất. Khi thi vào trường Quốc Tử Giám, ông tiếp tục là người đứng đầu.
Biết gia cảnh nghèo khó, Phan Kính không mải chơi như các bạn cùng trang lứa mà tập trung toàn bộ sức lực cho việc dùi mài kinh sử. Ông lấy giấy đã viết lộn mặt trái để viết tiếp, nhiều lần phải tập viết lên lá chuối tươi trong vườn nhà. Ngày lo phụ cha mẹ làm việc đồng áng, đêm về lại mượn ánh trăng để đọc sách.
Đến năm Quý Hợi (1743), Phan Kính ra Thăng Long dự thi với suy nghĩ “không thành đạt không trở về”. trong kỳ thi đó, ông đã vượt qua hơn 300 sĩ tử, đỗ hoa thám. Vì khoa thi này không lấy trạng nguyên và bảng nhãn, ông trở thành người đỗ cao nhất.
Phan Kính đã vượt qua đề thi chế sách gồm 10 mục, 100 câu hỏi do đích thân vua Lê Hiển Tông ra để. Quyển thi của Phan Kính được vua dùng bút son ngự phê: "Cho đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh".
Sau khi đỗ đạt, Phan Kính về quê vinh quy bái tổ, nghỉ ngơi 3 tháng, thu xếp việc nhà. Đến tháng 6/1744, ông thu dọn hành lý ra Thăng Long nhậm chức. Ban đầu, ông được vua sắc phong chức Hàn lâm viện đãi chế, chuyên việc cung phụng từ lệnh ở bên vua.
Phan Kính từng trải qua nhiều chức vụ quan trọng, để lại nhiều dấu ấn sâu sắc. Ông từng đảm nhận nhiều chức vụ như: Giám sinh ở Quốc Tử Giám, Đốc đồng trấn Sơn Tây, Đốc đồng xứ Thanh Hóa, Thư đốc thị Nghệ An, Đốc đồng xứ Tuyên Quang, Kinh lược sứ, Tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hóa…
Và nhắc đến tham hoa Phan Kính thì không thể không nhắc đến tài ngoại giao. Ông là vị thám hoa nước Việt được triều đình nhà Thanh cực kỳ coi trọng.
Sử chép, trong những năm 1758 - 1761, với cương vị Đốc đồng xứ Tuyên Quang kiêm tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hóa (gồm các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu và một phần Sơn La ngày nay), phái bộ vua Lê đem quân lên trấn giữ vùng biên giới phía Bắc, Phan Kính đã nhiều lần thương thuyết với quan chức nhà Thanh, dựng lại cột mốc biên giới, tiêu diệt thổ phỉ, giữ cuộc sống yên bình cho người dân.
Đại Nam nhất thống chí có chép: Trong thời gian từ năm 1759 đến 1760, Phan Kính được triều đình cử đi sứ sang kinh đô Yên Kinh của nhà Thanh để ký kết văn kiện chính thức về biên giới. Với kiến thức uyên bác cùng tài ngoại giao khéo léo, Phan Kính đã có nhiều công lao giúp nhà Thanh và Đại Việt phân định và ổn định cương giới.
Phan Kính được vua Càn Long nể phục về tài trí hơn người. Vua Càn Long đã gia phong cho ông danh vị "Lưỡng quốc đình nguyên thám hoa", tặng chiếc áo cẩm bào và hai bức trướng, ghi hai dòng chữ: "Thiên triều đặc tứ Bắc Đẩu dĩ Nam nhất nhân nhi dĩ”. Nghĩa là "Thiên triều đặc cách, phía Nam Bắc Đẩu, chỉ một người thôi".
Thế nhưng tiếc thay, cũng trong chuyến đi đó, do làm việc quá sức, trải qua nhiều gian lao vất vả, bị nhiễm chướng khí nơi biên ải mà thám hoa Phan Kính đột ngột qua đời tại nhiệm sở Hưng Hóa vào ngày 7/7/1761 (khi ấy mới 47 tuổi). Biết tin thám hoa qua đời, vua Thanh vô cùng thương tiếc, ông đã lệnh cho đóng 18 quan tài, khâm liệm rồi đưa rước về nước.
Khi thi hài Phan Kính được đưa về Thăng Long, đông đảo các quan văn võ tại triều vô cùng thương tiếc đã đến phúng viếng, chia buồn cùng gia quyến. Vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Doanh đã cấp lễ vật, tử tuất rất trọng hậu và tự tay đề bức trướng phúng viếng: "Lưỡng đồ văn hữu vũ / Vạn lý hiểm vy di", nghĩa là "Hai đường kiêm văn, võ / Vạn dặm hiểm lại bình".
Vua Lê Hiển Tông còn ban sắc truy phong cho ông chức Hữu thị lang Bộ hình, tước Quỳ dương bá, thụy Trung hiển, rồi giao cho Bộ Lễ cùng binh lính hộ tống cả 18 cỗ lĩnh cữu Phan Kính về quê nhà mai táng. Không ai biết, thi thể của ông nằm ở cỗ quan tài nào.
23 năm sau ngày Phan Kín mất, năm 1783, vua Lê Hiển Tông phong sắc tôn ông làm Thành hoang, gia phong là “Anh nghị đại vương”, cấp tiền bạc, cử thợ giỏi về địa phương xây dựng đền thờ, lăng tẩm ông tại thôn Vĩnh Gia, giao cho ba tổng Lai Thạch, Hòa Lâm, Bình Hồ thuộc huyện La Sơn thờ phụng.
Xem thêm: Chuyện 'Trạng Me đè trạng Ngọt' trong khoa thi kỳ lạ năm 1508: Ai mới là trạng nguyên thực sự?
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận