Bà hoàng duy nhất trong sử Việt không muốn con làm vua vì đã tiên đoán trước được điềm dữ
Cuối thời Trần có một bà hoàng đã tìm mọi cách từ chối khi con trai được đưa lên ngôi. Bởi bà biết rằng, ngai vàng là nơi gây họa cho con trai và điều tiên đoán đó đã "linh nghiệm".
Bà hoàng tìm mọi cách từ chối con trai đăng cơ hoàng đế chính là mẹ của "vua hèn" Trần Phế Đế (1377 - 1388) - hoàng đế thứ 11 của vương triều nhà Trần. Sử sách chép rằng, Trần Nghệ Tông ở ngai vàng được 2 năm (1370 - 1372) thì truyền ngôi lại cho em trai là Trần Kính (tức Trần Duệ Tông) để lên làm Thái thượng hoàng.
Trần Duệ Tông đăng cơ ngày 9 tháng 11 năm Nhâm Tý (1372). Ông làm vua đến tháng 1 năm Đinh Tị (1377), ở ngôi tổng cộng 5 năm thì chết trận.
Sử chép, thời kỳ đó, quân Chiêm Thành hống hách liên tục cướp phá ở vùng biên giới nước ta, Trần Duệ Tông thân chinh đem quân đi đánh để trấn yên biên cương. Tháng 12 năm Bính Thìn (1376), vua dẫn 12 vạn quân ra trận, đến tháng giêng năm Đinh Tị (1377) vua Chiêm cho người đến vờ xin hàng nên khi tiến vào kinh đô Chà Bàn thì bị phục binh quân Chiêm vây hãm. Trần Duệ Tông và nhiều viên tướng khác chết trong đám loạn quan. Hôm đó là ngày 24 tháng 1 năm Đinh Tị (1377), vua mất ở tuổi 40.
Nhận được tin em trai tử trận, Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông bèn lập con trưởng của Trần Duệ Tông là Trần Hiện (còn gọi với tên khác là Trần Nghiễn) lên ngôi, xưng là Giản Hoàng. Bề tôi dâng tôn hiệu là Hiến thiên thể đạo khâm minh nhân hiếu hoàng đế.
Giản Hoàng sinh ngày 6 tháng 3 năm Tân Sửu (1361), lúc lên làm vua mới 16 tuổi, quyền trị quốc nằm trong tay Thái thượng hoàng. Sách sử chép rằng, mẹ của vua là Gia Từ hoàng hậu họ Lê (không rõ tên) trước đó khi biết con được chọn làm người kế vị thì lo lắng.
Bà ra sức từ chối ngôi vàng mà cả trăm bà mẹ trong chốn hậu cung đều mơ ước. Thế nhưng vì từ chối không được nên bà lấy đó làm điều đau khổ, day dứt, lo lắng cho số phận con trai của mình.
Sử sách ghi rằng, bà Gia Từ quê ở Thanh Hóa, là em họ của Lê Quý Ly (sau lên ngôi đổi tên thành Hồ Quý Ly). bà được tuyển vào cung làm vợ Trần Duệ Tông. Ban đầu được phong làm Nguyên phi, đến tháng 2 năm Qúy Sửu (1373) được phong làm Gia Từ hoàng hậu.
Có lẽ vì sống trong thời buổi vương triều đang trên đà suy thoái, dòng ngoại thích Hồ Quý Ly có dấu hiệu lộng hành cùng các tham vọng lớn nên bà đã nhìn ra những mối nguy trong tương lai. Bà thấy con trai mình còn trẻ, năng lực có hạn, nếu đảm nhận vị trí đế vương trong tình cảnh khó khăn này thì quả là điều quá sức. Thậm chí có thể gây họa nên bà không muốn vì hư danh mà con phải dính họa sát thân.
Thế nhưng là phận nữ nhi, bà không thể cản được quyết định của anh chồng và đương nhiên, con trai bà đăng ngôi hoàng đế. Đánh giá về vụ vua này, sử chép: "Vua là người ngu hèn, chẳng biết làm gì, uy quyền ngày một về tay người dưới, xã tắc nghiêng đổ, đến thân mình cũng chẳng giữ được. Thương thay!...” - Đại Việt sử ký toàn thư. Sách Việt sử tiêu án cũng chê Trần Phế Đế “là người hôn ám, hèm kém không làm được việc, để quyền về tay kẻ dưới, làm cho xã tắc nghiêng đổ, đến thân cũng không giữ được”.
Trong Việt giám thông khảo tổng luận có lời bình rằng: "Giản Hoàng lại càng non trẻ, giữ đức không thường, đem của cải chôn giấu ở Thiên Kiện, lấy cớ kiếm hậu tứ cho Quý Ly, chống giặc không mưu mô, uy lệnh không chấn tác, rốt cuộc kẻ mặc áo bồ hoàng đắc chí, mà chùa Tư Phúc mình phải cầm tù”.
Vị vua này về sau không những bị cầm tù mà còn bị bức tử chết. Lúc bấy giờ, quyền hành của Hồ Quý Ly ngày càng lớn, vua bàn với con của Thái thượng hoàng là Trang Định vương Trần Ngạc và một số triều thần khác như Lê Á Phu, Lê Dữ Nghị… bàn kế định diệt trừ hậu họa. Tuy nhiên, sự không thành.
Hồ Quý Ly biết được âm mưu của vua Trần Hiện và các đại thần nên đã tức tốc vào cung tố cáo sự việc với Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông. Đến ngày mồng 6 tháng 12 năm Mậu Thìn (1388), Thái thượng hoàng vờ chuẩn bị về đất Yên Sinh (nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh), rồi cho gọi vua đến bàn việc nước.
Vừa đi đến nơi, vua Trần Hiện bị Thái thượng hoàng bắt, đem giam ở chùa Tư Phúc, rồi ban chiếu phế truất ngôi vua, giáng làm Linh Đức đại vương. Sau đó, Trần Hiện bị đưa đến phủ Thái Dương thắt cổ giết chết ngay trong ngày hôm ấy.
Trần Hiện qua đời năm 28 tuổi do bị phế truất nên sử gọi ông là Trần Phế Đế. Lúc vua bị giam trong chùa, các tướng Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Nguyễn Bát Sách định đem quân vào cứu vua ra nhưng ông không đồng ý, bảo họ giải tán quân lính và không được làm việc trái ý Thượng hoàng. Không lâu sau những người có cùng chí hướng với Trần Hiện bị thanh trừng hoặc bị bắt đi đầy.
Vậy nên sử sách mới trách rằng: "Trang Định vương Ngạc làm Thái úy và là con của Nghệ Hoàng, thấy xã tắc sắp đổ, nếu biết lấy lẽ phải làm cho vua cha sáng tỏ hiệu lệnh, khiến cho quần chúng theo như bạn bè, thì dẫu Nghệ Tông già lẫn lại trở về, Giản Hoàng nhu nhược lại lập lên, thì quyền bính có chủ, mệnh lệnh từ trên ban ra, thì lòng tham của họ Hồ tự phải dẹp đi. Trang Định không tính đến kế ấy; Á Phu cũng không hiểu là vua không có tài cương đoán, lại khuyên vua giết Qúy Ly mà cơ mưu không cẩn mật, để cho nó biết trước. Trang Định lại không quyết đoán sớm, làm lỡ cơ hội, đến nỗi việc hỏng, bản thân bị chết, vạ lây cả đến những quân tướng giỏi. Đáng than thay!” (Đại Việt sử ký tiền biên).
Có thể thấy, lời tiên đón của mẹ vua Trần Hiện đã trở thành hiện thực. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Trước kia hoàng hậu của Duệ Tông là Lê thị, tức là mẹ sinh của Linh Đức vương, là em gái con nhà chú của Lê Qúy Ly, khi Duệ Tông đi đánh phương Nam không trở về, hậu gọt đầu làm ni. Đến khi Nghệ Tông lập Linh Đức lên nối ngôi, hậu cứ từ chối mãi, Thượng hoàng không nghe, bà bèn khóc bảo người thân rằng: “Con ta kém đức, khó kham trách nhiệm to lớn, đến phải tai họa thôi. Tiên hoàng mất đi, kẻ chưa chết muốn chết, không muốn trông thấy việc đời nữa, huống chi lại trông thấy con mình sắp nguy ư?”. Hậu băng được 2 năm thì Linh Đức bị giết”.
Còn Việt sử tiêu án thì nhận xét rằng: "Cung nhân của vua Duệ Tông, là mẹ của Linh Đức Vương, là em gái họ của Qúy Ly. Vua Duệ Tông đi đánh phương Nam bị chết, bà liền cắt tóc làm ni cô, đến khi vua Nghệ Tông lập Linh Đức làm vua, bà cố từ chối mà không được, lại vào ở trong cung, nói chuyện với Thái úy Thích, có vẻ lo lắm: “Con tôi bạc phúc, khó kham được trách nhiệm to. Tiên hoàng mất đi, tôi không chết theo được, không còn muốn trông thấy việc đời nữa, huống chi còn nỡ trông thấy con nguy đến thân hay sao”. Rồi bà mất”.
Sử thần Ngô Sĩ Liên từng có lời bàn: “Việc lập Linh Đức cũng là do Nghệ Hoàng, mà phế bỏ cũng do Nghệ Hoàng. Trước kia Nghệ Hoàng không nghe lời của Lê hậu là vì nghĩa, sau nghe lời gièm của Qúy Ly là vì lòng riêng. Nhưng trước kia lập lên sao mà sáng suốt thế, mà sau bỏ đi sao lại tối tăm vậy. Lại thắt cổ giết đi, qúa đáng đấy!” (Đại Việt sử ký tiền biên).
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận