Lăng Khải Định – Kiến trúc hơn 100 tuổi và vẻ đẹp choáng ngợp vượt thời gian
Khải Định là vị vua nổi tiếng trong triều Nguyễn, lên ngôi năm 31 tuổi. Khi qua đời, vua được trôn cất tại Lăng Khải Định. Đây là một trong những kiến trúc cổ xưa có giá trị về mặt nghệ thuật nhất nhì hiện nay.
Khải Định là vị vua có nhiều điều tiếng nhất trong số 13 đời vua nhà Nguyễn. Ông bị xem là vua bù nhìn, nhu nhược trước thực dân Pháp khiến trong dân gian xứ Huế lúc bấy giờ còn truyền miệng câu vè châm biếm rằng: “Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây, Nghề này thì lấy ông này tiên sư”.
Không những thế vua Khải Định còn nổi tiếng là ông vua ăn chơi, cờ bạc, hoang phí, và đặc biệt là có sở thích ăn mặc diêm dúa, lòe loẹt không giống ai. Linh mục Léopold Cadière đã mô tả về vua rằng: “Mặc comple bên trong khoác long bào bên ngoài, ngực lấp lánh Bắc đẩu Bội tinh, thắt lưng gắn bóng đèn điện chớp đỏ”.
Khi mất vua Khải Định (trị vì năm 1916-1925) được an táng tại Lăng Khải Định, còn gọi là Ứng Lăng, tọa lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế, nay thuộc xã Thủy Bằng, thành phố Huế.
Đây thực sự là một công trình có giá trị về mặt nghệ thuật và kiến trúc. Thậm chí, còn được đánh giá là một kiệt tác về nghệ thuật khảm sành sứ cung đình Huế, góp phần làm phong phú, đa dạng thêm quần thể lăng tẩm ở Huế nói riêng và di sản Huế nói chung.
Khải Định lên ngôi năm 1916 ở tuổi 31. Ngay sau khi lên ngôi, ông đã cho xây dựng nhiều cung điện, dinh thự, lăng tẩm cho bản thân và hoàng tộc như điện Kiến Trung, cung An Định, cửa Trường An, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Đức, đặc biệt là Ứng Lăng.
Đối với Ứng Lăng là nơi sinh phần cho mình, ông đã chọn triền núi Châu Chữ làm vị trí để xây cất. Ở vị trí này, lăng Khải Định lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án; lấy núi Chóp Vung và Kim Sơn chầu trước mặt làm “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”; có khe Châu Ê chảy từ trái qua phải làm “thủy tụ”, gọi là “minh đường”. Nhà vua đổi tên núi Châu Chữ – vừa là hậu chẩm, vừa là “mặt bằng” của lăng – thành Ứng Sơn và gọi tên lăng theo tên núi là Ứng Lăng.
Lăng khởi công ngày 4 tháng 9 năm 1920 do Tiền quân Đô thống phủ Lê Văn Bá là người chỉ huy và có rất nhiều thợ nghề, nghệ nhân nổi tiếng khắp cả nước như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký Duyệt, Cửu Sừng…tham gia trong suốt 11 năm. Để có kinh phí xây dựng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng. Điều này đã bị lịch sử lên án gay gắt.
Lăng Khải Định có diện tích khiêm tốn hơn nhiều so với các lăng mộ trước đây chỉ với kích thước 117m x 48,5m nhưng ngược lại cực kỳ công phu và tốn nhiều thời gian. Để xây lăng, Khải Định cho người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói Ardoise…, cho thuyền sang Trung Hoa, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh màu.
Về kiến trúc, lăng Khải Định được đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo và cũng lạc lõng…
Về tổng thể, lăng là một khối hình chữ nhật vươn lên cao có 127 bậc cấp. Sự xâm nhập của nhiều trường phái kiến trúc như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique… đã để lại dấu ấn trên những công trình cụ thể:
- Những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ.
- Trụ biểu dạng phù đồ (stoupa) của Phật giáo.
- Hàng rào như những cây thánh giá khẳng khiu.
- Nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể…
Điều này là kết quả của hai yếu tố: sự giao thoa văn hóa Đông – Tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Khải Định.
Cung Thiên Định ở vị trí cao nhất là kiến trúc chính của lăng, được xây dựng công phu và tinh xảo. Nội thất trong cung đều được trang trí những phù điêu ghép bằng sành sứ và thủy tinh. Đó là những bộ tranh tứ quý, bát bửu, ngũ phúc, bộ khay trà, vương miện… kể cả những vật dụng rất hiện đại như đồng hồ báo thức, vợt tennis, đèn dầu hỏa… cũng được trang trí nơi đây.
Công trình này gồm 5 phần liền nhau:
- Hai bên là Tả, Hữu Trực Phòng dành cho lính hộ lăng.
- Phía trước là điện Khải Thành, nơi có án thờ và chân dung vua Khải Định.
- Chính giữa là bửu tán, pho tượng nhà vua ở trên và mộ phần phía dưới.
- Trong cùng là khám thờ bài vị của vua.
Bên dưới bửu tán là pho tượng đồng của Khải Định được đúc tại Pháp năm 1920, do 2 người Pháp là P. Ducing và F. Barbedienne thực hiện theo yêu cầu của vua Khải Định. Thi hài nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một toại đạo dài gần 30m, bắt đầu từ phía sau Bi Đình. Phía sau ngôi mộ, vầng mặt trời đang lặn như biểu thị cái chết của vua.
Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tánh, tác giả của 3 bức bích họa “Cửu long ẩn vân” lớn vào bậc nhất Việt Nam được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận