Vị vua Việt nào tự lập bia mộ kể lại tội lỗi của đời mình?
Trên tấm bia 4.935 chữ này, vị vua Việt tự kể về những tội lỗi trong cuộc đời mình. Trong đó có 2 tội lớn nhất là để đất nước rơi vào tay người Pháp và không có con nối dõi tông đường.
Lịch sử Việt Nam ghi chép rất nhiều câu chuyện lạ về các vị vua Việt. Trong số đó không thể không nhắc đến vua Tự Đức - vị hoàng đế thứ 4 của triều đình nhà Nguyễn.
Vua Tự Đức (22/9/1829 - 19/7/1883), tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì. Ông là vị vua có thời gian cai trị lâu nhất của nhà Nguyễn, từ năm 1947 - 1883. Ông được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Dực Tông. Trong suốt thời gian trị vì, ông chỉ sử dụng duy nhất 1 niên hiệu là Tự Đức. Vì vậy, ngày nay sử sách thường gọi ông với cái tên này.
Thời gian Tự Đức cai trị đất nước đất dấu sự suy yếu của triều Nguyễn và nhiều sự kiện xấu với vận mệnh Đại Nam. Quân đội triều Nguyễn suy yếu, kinh tế trì trệ, trong khi nhiều cuộc nổi loạn diễn ra trong cả nước. Năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng, nhăm nhe nước Nam.
Bên cạnh đó, vua Tự Đức cũng là vị vua duy nhất có đến 103 bà vợ nhưng không có con nối dõi. Sau cùng ông đành nhận 3 người cháu ruột làm con nuôi.
Vào năm 1871, vua Tự Đức tự tay soạn thảo tấm mộ cho mình - việc lẽ ra là của con cái để ca ngợi công đức của vua cha. Tấm bia này nặng đến 20 tấn, cao 4m mét, khắc 4.935 chữ Hán do chính tay vua Tự Đức viết, với tên gọi Khiêm cung ký. Cách đây vài năm, Thủ tướng công nhận tấm bia đang đặt tại lăng vua Tự Đức ở phường Thủy Xuân (thành phố Huế) là bảo vật quốc gia.
"Đây là bia lớn nhất nhà Nguyễn để lại, ghi lại cả giai đoạn lịch sử. Việt Nam đối mặt với Pháp, nhà vua chật vật đối phó với thế lực phương Tây nhưng không thành công, đành để mất 3 tỉnh miền Đông, 3 tỉnh miền Tây, rồi dần dần để chủ quyền đất nước rơi vào tay người Pháp", Giám đốc Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế Huỳnh Thị Anh Vân, nói.
Trong Kiêm cung ký, vua Tự Đức kể sinh ra đã thường xuyên ốm đau, vú nuôi lại không sạch sẽ. Sợ con vì thế mà tối dạ nên mẹ vua Tự Đức là Thái hậu Từ Dũ tự tay ẵm bồng, nuôi nấng. Tuổi thơ của ông gắn liền với kỷ niệm cầm than viết lên vách. Đến tuổi để tóc trái đào, Hồng Nhậm được mẹ cho theo thầy đọc sách và biết làm câu đối, thơ văn ngay khi học tiểu học, dù chưa biết thanh luật.
Vua còn kể, Thái hậu Từ Dũ yêu thương mà nghiêm khắc. Hàng ngày thường dạy con cách nói năng, đi đứng cho đúng phép tắc cung đình Huế chứ không lêu lổng, ăn chơi. "Mỗi sớm ta ra nhà ngoài học hỏi, gần đứng bóng mới vào. Nếu ta lỡ quên mất hay lười biếng thì người tùy theo đó mà la rầy răn bảo. Nếu ta chưa thuộc thì người khiến ta ngồi ngay ngắn, học cho kỳ thuộc mới thôi. Bằng không, dù có trò vui diễn ra ngay gần trước mắt cũng chẳng cho ta xem", vua kể.
Vua Tự Đức cũng nhận mình từ nhỏ đã sáng dạ nên học các sách khoảng nửa ngày là thuộc. Lại nhờ biết kính sợ lời dạy bảo nghiêm khắc nên mới được như vậy, nhưng may ít bị đánh. Bất đắc dĩ, phạm tội nặng quá Thái hậu đánh đòn, nhưng đánh xong mẹ lại khóc.
Vua Tự Đức nhớ nhất là trận đòn roi của vua cha khi một lần phạm lỗi: "Người không mấy khi răn dạy, chứ đã răn dạy thì ta cố chí vâng theo". Niềm vui Hồng Nhậm đem lại cho cha là những lần làm được thơ đối. Nhờ ham học và thông minh, Hồng Nhậm được vua Thiệu Trị yêu quý, đi đâu thường dắt theo.
Tự Đức theo cha ra Bắc tiếp đoàn ngoại giao. Trên đường về luôn ở cạnh theo hầu, nên hoàng tử sớm được vua cha phong tước công, ra lập phủ riêng và cưới vợ năm 15 tuổi.
Tự Đức thường vào cung gặp vua cha để hầu cơm hay đối thơ. Thỉnh thoảng gặp văn bản sắc dụ quan trọng, vua Thiệu Trị lại sai Hồng Nhậm dò sửa ngự bút, bởi "các anh em ta người thì lười biếng, người thì còn bé, chỉ riêng ta hơi biết chữ, nên mới được ưu ái như thế".
Vua còn khiêm tốn nói rằng, đó là ơn đức cha mẹ dành cho mình, chứ bản thân khi đó kiến thức chưa sâu rộng. Về sau, sức học của ông tiến bộ dần.
Ông cũng kể mình có thú vui bắn cung hay đi săn giống vua cha. Một lần hầu bắn ở vườn cấm, có Thái hậu đi theo, hoàng tử bắn 5 phát đều trúng đích lên được cha mẹ lấy làm vui và hãnh diện. Vua Thiệu Trị khi đó đã nói ẩn dụ rằng Hồng Nhậm sẽ thay mình kế tục ngai vàng.
Hồng Nhậm còn nhận mình không để ý đến những kẻ ganh ghét dèm pha, lại ít nói, hay ngượng có khi cùng vào chầu trong điện nhưng gặp đại thần cũng không nói chuyện, dáng vẻ như đàn bà. Ngay cả những người quen biết cũ cũng ít đi lại. Khí huyết yếu đi, thân thể ốm gầy, đang lúc tuổi trẻ thanh nhàn mà việc nối dõi khó khăn, không an ủi được tấm lòng mong mỏi của cha mẹ nên Tự Đức thấy hổ thẹn.
Năm 1847, vua Thiệu Trị lâm bệnh qua đời, nhường ngôi cho Hồng Nhậm. Ông lấy niên hiệu Tự Đức. Vị vua 19 tuổi lo lắng mình còn trẻ, chưa hiểu hết phép tắc và tinh đời, sợ không lo nổi việc lớn. Chị gái cũng đột ngột qua đời, vua lo nghĩ nhiều đến nỗi phát bệnh, nằm liệt giường. Sức khỏe vì thế cũng suy kiệt thêm.
Chuyện bị điều tiếng cướp ngôi anh trai Hồng Bảo cũng được Tự Đức nhắc trong Khiêm cung ký. Không tin việc Tự Đức lên ngôi là theo ý vua cha, Hồng Bảo dọa tự tử, muốn đi qua Pháp sống. Được Tự Đức tha lỗi, Hồng Bảo lại tìm cách lật đổ ngai báu và bị kết án tử.
Viết trong Khiêm cung ký, vua Tự Đức cũng tỏ ra đau buồn vì câu chuyện hậu cung này. Ông trừng trị Hồng Bảo nhưng nuôi Đinh Đạo (con trưởng của Hồng Bảo). Sau này Đoàn Hữu Trưng lấy danh nghĩa Đinh Đạo gây ra cuộc nổi loạn trong chốn cung cấm, Tự Đức mới giết đi trừ hậu họa.
Khi thực dân Pháp mon men tiến vào bờ biển Việt Nam, Tự Đức rất lo lắng khi dân sống bình yên, không biết đánh trận, thù trong giặc ngoài quấy nhiễu. Ông cho rằng đó là sự trừng phạt nặng nề từ trời cao để cảnh cáo cả vua tôi, vì "ngu mà mong yên ổn, mờ tối không lo phòng bị từ khi việc chưa phát, tôi hay tướng giỏi cũng đã rơi rụng quá nửa, không ai nhắc nhở lời dạy của vua cha về việc đề phòng mặt biển đến giúp ta tránh khỏi chỗ lỗi lầm".
Ông thốt lên: "Ai là người cũng gìn giữ bờ cõi ta, vỗ yên nhân dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh dẹp, nhưng càng đánh dẹp càng loạn, mỏi mệt". Trăn trở tính chuyện giữ nước, những nhà nho lão thành, quan đại thần được sai đi bàn định điều ước. "Nhưng không hiểu vì lý do gì lại dễ dàng lập thành hòa nghị. Bỗng chốc đem cả nhân dân cùng đất đai của các triều nhọc nhằn gây dựng cho giặc hết...", Tự Đức đã phải "nuốt nước mắt, đành chịu tội với tôn miếu và nhân dân".
Vua Tự Đức cũng cho mình dùng người không sáng suốt, không xứng đáng, tình hình đất nước rối ren, tin chiến trường tới tấp, việc quan bộn bề, vua gầy ốm, mang bệnh, không chăm lo được chính sự. Trăn trở vận nước, Tự Đức thốt lên: "Ta thực sự một mai chết đi thì tự thẹn trí khôn không bằng con cáo".
Để chủ quyền đất nước rơi vào tây người Pháp, Tự Đức tự nhủ rằng, điều ông ngậm ngùi là học chưa thành chí chưa thỏa, danh hão chưa đủ để trừ tội thực, sức yếu chưa đủ để làm việc nặng. Đến nay, đất mất chưa lấy lại được, và giặc ngoài chưa dẹp trừ xong, nối dõi muộn màng, khó nhờ ai đảm đương việc nước.
Song Tự Đức cũng tự hào khi "cầm quyền sinh sát đã lâu, mà chưa từng tự tiện giết một người khi bộ Hình chưa kết án". "Mọi việc đều cốt lấy thực chất, cứ chăm chăm để nuôi dân, vững gốc. Ngày đêm xem xét công việc, không bỏ thừa sức".
Tuy vậy, ông cũng không tránh khỏi việc ham mê ca hát, sắc đẹp, tiền tài nhưng "chưa quấy nhiễu nhân dân, làm hư chính trị". Ông cũng là vị vua bài trừ lối chuộng công lợi, dối gian, tham lam xảo trá, tham lợi nhỏ chịu hại lớn. Lỗi lớn nhất, theo vua Tự Đức, chính là việc để đất nước mất chủ quyền.
Vua sai quần thần chọn đất xây lăng. Khi mới khởi công xây dựng, Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại đánh đập tàn nhẫn, nên dân phu xây lăng nổi loạn. Sau này gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.
Xem thêm: Vua Tự Đức thương Ưng Đăng nhưng lại truyền ngôi báu cho Ưng Chân, vì sao vậy?
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận