So sánh sự khác nhau trong quan niệm của Trương Ba và Đế Thích về ý nghĩa sự sống
Lưu Quang Vũ đã thật tài tình khi tạo ra xung đột kịch căng thẳng do khác nhau về quan niệm sống giữa Trương Ba và Đế Thích...
ĐỀ BÀI:
Qua màn đối thoại Trương Ba và Đế Thích:
Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!
Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
Phân tích màn đối thoại Trương Ba – Đế Thích để làm rõ hai quan niệm sống trên. Đồng thời qua màn đối thoại hãy làm rõ triết lý : “Hãy sống là chính mình”.
BÀI LÀM GỢI Ý:
Suối nguồn nuôi dưỡng tinh thần mỗi con người chính là quyền được sống là chính mình, được bảo vệ những giá trị toàn vẹn bên trong bản thân mình. Đó là những chân lý đã đi từ cuộc sống vào các tác phẩm, nổi bật và đặc sắc hơn cả là tác phẩm "Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt" - một vở kịch của Lưu Quang Vũ đã gửi gắm nhiều thông điệp giá trị vào cuộc đời mỗi chúng ta. Và trong vở kịch ấy, cuộc đối thoại khiến người đọc, người xem trăn trở nhiều nhất chính là cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Tiên Đế Thích, ta cảm nhận được sự oái oăm, rất nhiều bất lực bao trùm xuyên suốt màn hội thoại này.
Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã chuyển thể thành vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có bảy hồi, phần trích học sách giáo khoa là hồi kết. Thông qua bi kịch Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc, người xem vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Phải sống trong thân thể của những người khác thật sự là những điều khó khăn mà Hồn Trương Ba đang phải chịu đựng, khi cảnh người thân không ai nhận ra ông, không ai chấp nhận một hình hài thô kệch, tính cách phàm tục của xác hàng thịt, ông đau khổ khi bị những người thân yêu của mình xa rời, sợ hãi.
Từ người thân nhất là vợ ông, cũng đau khổ, mang trong mình niềm uất hận, tủi khổ, khi nhìn thấy người chồng của mình. Không còn ai còn biết ông nữa, đứa cháu gái cũng khóc khi nhìn thấy xác của hàng thịt, một người vốn gần gũi, đáng kính của cháu giờ lại trở thành một người xấu lắm, ác lắm… Rồi đến cả con dâu cũng thể hiện sự đau khổ vì nhìn thấy ông đã dần đổi thay quá nhiều. Hình ảnh của người cha đang dần mất đi, thay vào đó là xác của hàng thịt, to lớn, béo đến sỗ sàng, xa lạ.
Những người thân nhất của ông giờ đây đều không nhận ra ông nữa, ông đau khổ đến tuyệt vọng, chi tiết Hồn Trương Ba “thẫn thờ”, ông ôm đầu bế tắc, để rồi nhận thấy “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”. Ông mất hết niềm tin vào cuộc sống của mình, tuyệt vọng, tâm hồn cao đẹp của ông không thắng được thể xác, diện mạo bên ngoài mà ông đang phải mang, nỗi đau đó đang giằng xé lấy tâm hồn của ông. Ông thẫn thờ trong tuyệt vọng, đau khổ, bế tắc, không còn có lối thoát, ông tuyệt vọng vì sao mình trở nên như thế này, sao phải sống nhờ xác của người khác.
Tâm hồn của ông đang bị tổn thương trước diện mạo mà ông đang phải mang, những chi tiết đó đã biểu hiện những nét đặc sắc trong cách thể hiện của tác giả. Ông làm cho mối quan hệ giữa thể xác và tâm hồn ngày càng bị mâu thuẫn gay gắt, để qua đó ông muốn nói lên mối quan hệ giữa tâm hồn và thể xác, tâm hồn phải đi liền với thể xác, là thứ phục vụ cho thể xác, không có gì có thể thay thế lấy xác thịt của mình,hai thứ này không thể tách rời nhau được.
Cuối cùng, sau những dằn vặt, đau khổ ấy, Hồn Trương Ba đã quyết định thắp nhang gọi Tiên Đế Thích đến, và quyết định từ bỏ thể xác đang mang, để bảo vệ lấy linh hồn cao khiết đang ngày một phai tàn vì thể xác khác biệt. Và qua cuộc tranh luận với Đế Thích, tác giả đề cao quan điểm sống: “phải sống là chính mình”.
“Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”. Lời độc thoại mở đầu của Hồn Trương Ba cho thấy cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng dữ dội của ông, đó là cuộc đấu tranh giữa xác và hồn; giữa cao cả và đê hèn; giữa tốt và xấu; giữa cao thượng và dung tục; giữa khát vọng và dục vọng. Đó cũng là cuộc đấu tranh để hoàn thiện nhân cách. Cuộc đấu tranh này phần thắng nghiêng về xác nhưng bản thân hồn Trương Ba đã không chịu lép vế, không khuất phục mà đã tìm mọi cách để được sống là chính mình – đây chính là nhân cách cao đẹp của Trương Ba.
Trương Ba bày tỏ nguyện vọng với Đế Thích: “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Hai lần tha thiết và chắc nịch:“tôi không thể”; “không thể được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình. Bởi, ông biết rằng, tự mình phải cứu lấy mình, nếu cứ mãi day dứt và tuyệt vọng chịu thua thể xác, chẳng bao lâu nữa ông sẽ đánh mất đi linh hồn đẹp đẽ mà một đời Trương Ba ông đã xây dựng.
Tiếp theo, ông khẳng định một quan điểm sống cao đẹp – sống phải là chính mình: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của cái bên trong và cái bên ngoài: “bên trong” chính là linh hồn, cảm xúc, tư tưởng, nhân cách cao đẹp của Trương Ba. Hồn là sự tinh anh chi phối điều khiển thể xác. Đối lập bên trong là “bên ngoài” – xác thịt thô phàm của anh hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, là bản năng, là nhu cầu tự nhiên, là dục vọng bản năng. Sự tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh hồn đã nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa hiệp với nhu cầu bản năng. Đây chính là sự dằn vặt, đau khổ, trăn trở của Trương Ba. Cả hai không thể hoà hợp bởi không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.
Từ đó Trương Ba lên tiếng đòi nhu cầu chính đáng của bản thân: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng được sống hòa hợp. “Toàn vẹn” nghĩa là phải có sự hòa hợp giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức, giữa thể xác và linh hồn. Không thể có cuộc sống nào mà “hồn này xác kia” được. Cuộc sống không thuận theo lẽ tự nhiên, không thuận theo tạo hóa, sống mà không được là chính mình thì đó là một bi kịch nghiệt ngã.
Và liệu sau những yêu cầu đó của Trương Ba, Tiên Đế Thích có chấp nhận quan điểm ấy và đứng về phía Trương Ba? Câu trả lời là Không, Đế Thích có lý lẽ riêng, cái lý lẽ mà dường như mỗi chúng ta đều dễ dàng được nghe trong cuộc sống thường nhật, cái lý lẽ đã dìm chết bao nhiêu con người trong cảnh "sống nhờ", sống với vỏ bọc là người khác.
Đế Thích cho rằng: Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống ấy vì “dưới đất trên trời đều thế cả”. Đế Thích chỉ ra rằng không chỉ Trương Ba đang sống trong cảnh trong ngoài bất nhất, mà mọi người đều như thế cả. Vì vậy Đế Thích khuyên Trương Ba đừng cố gắng làm viên bi lăn ngược vòng mà hãy chấp nhận, hãy biết cách thỏa hiệp, học cách chấp nhận. Đế Thích đã lấy tâm lý đám đông để áp đặt lên quan điểm sống của mình. Đế Thích lấy dẫn chứng về chính ông ta và Ngọc Hoàng cũng không thể sống là chính mình: “Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo như những gì tôi nghĩ ở bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa. Chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng”. Như vậy, theo Đế Thích thì: “không ai được sống là chính mình”. Bởi sống có nghĩa là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì còn do hoàn cảnh, điều kiện mà con người buộc phải quy thuận. Quan niệm sống này rất phổ biến trong xã hội, khi một bộ phận người cho rằng ta có thể sống và phải sống tùy thuộc vào hoàn cảnh xung quanh, vào người khác, vào bất cứ ngoại cảnh nào và không phải vì chính bản thân ta.
Nhưng với Trương Ba, ông vẫn một mực khẳng định quan điểm cao đẹp của mình: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”. Trương Ba đưa ra sự so sánh đồ đạc, vật chất và bản thân. Đồ đạc, của cải vật chất mượn của người khác đã là chuyện không nên; còn sống nhờ, sống gửi, sống ký sinh vào thân xác của kẻ khác là điều xấu hổ đáng lên án. Trương Ba thẳng thắn: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã chỉ trích quan niệm sai lầm của Đế Thích bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Đế Thích, sống là tồn tại còn tồn tại như thế nào thì không cần biết. Với Trương Ba, sống không chỉ là sự tồn tại sinh học mà sự tồn tại ấy còn phải là sự tồn tại có ý nghĩa.
Với đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Tiên Đế Thích, ta có thể cảm nhận rõ nét sự quyết tâm của Trương Ba trong cuộc đấu tranh vươn lên nghịch cảm, một cuộc chiến để bảo vệ linh hồn cao đẹp của bản thân diễn ra rất mạnh mẽ và kiên quyết. Bởi sống là sống làm chính mình, không phải sống chỉ để tồn tại.
Và, Hồn muốn trọn vẹn là Hồn, Xác trả về Hồn của Xác: “Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này”. Nhưng Đế Thích bác bỏ vì Đế Thích cho rằng tâm hồn đáng quý của Trương Ba không thể thay thế cho phần hồn tầm thường của anh hàng thịt. Trương Ba lập luận rằng: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta… chúng sinh ra là để sống với nhau”. Để khẳng định với quyết tâm của mình Trương Ba trở nên mạnh mẽ: “Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”. Ý chí mạnh mẽ của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được sống là chính mình”, và để “được sống là chính mình” lúc này, Trương Ba không có con đường nào khác là cái chết. Vì chỉ khi chết đi, ông mới thực sự là chính mình, mới hoàn nguyên được vẻ đẹp cao khiết của linh hồn mình. Với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất để linh hồn có thể trú ngụ sau khi chết chính là phục sinh trong trái tim của những người yêu quý ông.
Lưu Quang Vũ đặt Trương Ba vào một tình huống kịch độc đáo. Sự việc thằng cu Tị con trai độc nhất của chị Lụa chết đã làm cho cuộc đối thoại mang tính bước ngoặt. Và đến đây, ta càng cảm thấy kính nể và quý trọng Hồn Trương Ba bởi sự cao quý mà ông có.
Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống trong thân xác thằng bé chắc sẽ ổn”. Câu nói này của Đế Thích một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ đơn giản, phiến diện – sống là sự tồn tại. Trước yêu cầu của Đế Thích, Trương Ba ngập ngừng: “Ông cho tôi suy nghĩ một lát đã”. Sự phân vân của Trương Ba cho thấy: sống là đáng quý thật, được tồn tại mãi mãi là điều còn quý giá hơn. Sự phân vân này cũng cho thấy Trương Ba rất ham sống, vẫn muốn được sống. Trương Ba lại tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ông hình dung thấy trước mắt là cuộc sống tương lai của mình trong cơ thể của một thằng bé lên mười: “Có khi tôi còn phải sang nhà chị Lụa ở… Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào, khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên mười…”. Trương Ba thấy mọi sự vô lí nhất là khi ông nhìn thấy được sự cô đơn của bản thân khi: “Vẫn phải sống suốt bao năm tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh… Tôi sẽ như ông khách ngồi ở nhà người ta… Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng”. Điều khiến chúng ta trân trọng ở Trương Ba đó chính là tâm hồn ông cao thượng: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị” và cũng chính cái chết của cu Tị cùng với khát vọng được cứu sống thằng bé đã khiến Trương Ba trở nên mạnh mẽ. Trương Ba lên tiếng khẩn khoản cầu cứu Đế Thích: “Ông hãy cứu nó! Ông phải cứu nó!… vì con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”.
Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”. Ông cũng khuyên nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là làm cho cu Tị được sống lại. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối cùng cũng thay đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở về với chính mình chứ không còn là “cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.
Có những bi kịch mang cho ta nhiều nghẹn ngào, nhưng cũng có những bi kịch làm trái tim ta tổn thức trân trọng. Bi kịch của Hồn Trương Ba chính là như thế, vừa khiến ta trăn trở, nhưng cũng làm ta rung động. Dẫu Hồn Trương Ba lựa chọn giã từ cuộc sống trần tục để bảo vệ hương hồn cao đẹp, nhưng ông đã ở trong trái tim những người thân yêu của ông, mãi mãi như vậy.
Hồn Trương Ba đau khổ, quyết định lựa chọn cái chết để giải phóng cho mình một mặt xuất phát từ nhu cầu nội tại của bản thân, mặt khác xuất phát từ tấm lòng vị tha, trái tim nhân hậu, cao thượng: mong muốn giải thoát nỗi khổ đau cho những người thân yêu; muốn ngăn chặn nguy cơ gia đình “tan hoang” do tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ chính mình; muốn đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người xung quanh, như cu Tị, chị Lụa, vợ anh hàng thịt, anh hàng thịt.
Qua đoạn đối thoại của Hồn Trương Ba và Đế Thích, ta còn thấu hiểu được một quan niệm - một chân lý: "Hãy sống là chính mình". Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, có được sự hoà hợp giữa thể xác và linh hồn, giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc về nhân cách, sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người đúng nghĩa. Ở đây hai hình tượng hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần con và phần người. Một bên đại diện cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục. Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hoà giữa việc chăm lo cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Thông qua đó Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm hồn. Loại khác thì luôn coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc bản thân chỉ khư khư giữ cho linh hồn được cao đẹp. Thông qua xác và hồn Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người. Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn.
Sáng tạo lại cốt truyện dân gian độc đáo, Lưu Quang Vũ để lại cho nhân thế một tác phẩm trên cả tuyệt vời. Với nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm; hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện, giúp người đọc dễ dàng theo dõi mạch truyện và thấm thía ý nghĩa trong đó. Tác giả tạo ra xung đột kịch căng thẳng do khác nhau về quan niệm sống; Ngôn ngữ kịch giàu tính cá thể. Và với cuộc đối thoại này, tác giả đã cởi nút cho xung đột của tác phẩm, tôn vinh con người với những ước mơ, những khát vọng đời thường.
Trong truyện dân gian, cốt truyện hồn Trương Ba còn hàm chứa tiếng cười sảng khoái và lạc quan trước việc người chết bỗng sống lại. Trong kịch Lưu Quang Vũ, tiếng cười đó dường như biến mất, hoặc nếu có thì cũng đã bị đổi sắc thái, chuyển thành tiếng cười của cái bi hài trái khoáy, hài hước đen. Cái tiếng cười đa trị được đặt trên nền của sự đổ vỡ, hỗn độn. Màn đối thoại mở đầu vở kịch giữa Nam và Bắc Đẩu trên thiên đình chất chứa tiếng cười bi đát về sự đổ vỡ. Diễn ngôn hậu hiện đại đâu còn chỉ một sự trang nghiêm để diễn tả khung cảnh trang nghiêm, mà đã sử dụng lối nói suồng sã của đời sống chen vào diễn ngôn mang tính văn chương thuần túy. Cách nói của các nhân vật trong kịch, tự nó đã cho thấy sự rối ren của thời đại, sự khốn đốn của con người trong sự lẫn lộn, tù mù trắng đen của xác và hồn.
Tính chất nước đôi trong lối nói của nhân vật cũng được vận dụng. Sau khi nghe hồn Trương Ba đòi được chết, lập luận về mục đích đánh cờ và tuyên bố không đánh cờ với mình, Đế Thích thốt lên: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”. Câu nói này không chỉ cười Đế Thích mê cờ đến mức xem đánh cờ là lẽ sống tối thượng của đời mình mà còn cười lũ người hạ giới không dám dâng hiến hết đời mình cho một mục đích, một môn nghệ thuật mình hằng yêu thích. Đây là dạng tiếng cười đa trị. Có thể cười bất kỳ đối tượng nào miễn kẻ đó có khả năng tư duy để nhận thức mọi sự cực đoan, mọi sự suy tôn hay hạ bệ, mọi chuẩn mực, chân lý,... rốt cuộc cũng chỉ là tương đối.
Khát vọng của hồn Trương Ba là khát vọng vươn đến cái chân thực, cái toàn vẹn tuyệt đối và sẵn sàng chấp nhận cái chết để bảo toàn, để vươn đến cái tuyệt đối đó. Ở góc độ này, hồn Trương Ba đứng cao hơn cả Đế Thích bởi đã dũng cảm nói lên tiếng nói bảo vệ chân lí cao quý của con người: sự trung thực, bảo vệ sự trọn vẹn nhân cách, trọn vẹn giá trị nhân sinh. Bằng cái chết của mình, hồn Trương Ba trở nên bất tử. Đó là một nghịch lí, nhưng cũng chính là con đường phục hưng của những giá trị nhân văn cao quý.
(Nguồn: Thưởng thức sách)
Xem thêm: 7 dạng kết bài nâng cao "Hồn Trương Ba da hàng thịt" nên biết
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận