Ôn thi tốt nghiệp: Phân tích "Chiếc thuyền ngoài xa" vận dụng lý luận văn học

Qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện quan điểm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời thông qua số phận của người đàn bà hàng chài.

Đỗ Thu Nga
11:00 31/05/2024 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Văn học chính là cầu nối giữa trái tim với trái tim giữa tâm hồn với tâm hồn. Văn học là “người thư kí trung thành của trái tim” luôn thấu hiểu những tâm tư tình cảm những niềm ngưỡng vọng muôn thuở của nhân loại. Mà khát vọng muôn đời của nhân loại chính là vươn đến những giá trị Chân – Thiện – Mỹ, vượt thoát khỏi giới hạn tồn tại của không gian và thời gian để hướng đến những giá trị vĩnh hằng, bất diệt. Những cái đẹp độc đáo, khác thường xuất hiện trong văn học như một lẽ tự nhiên. “Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời”. Qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện quan điểm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời thông qua số phận của người đàn bà hàng chài. Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc khoải về số phận một người đàn bà như thế, thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không biết đâu là bến bờ hạnh phúc.

​“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” Có thể nói “Chiếc thuyền ngoài xa” là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.

Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh (!). Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hoà với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.

Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh.

phan-tich-chiec-thuyen-ngoai-xa-van-dung-ly-luan-van-hoc-67

Nỗi xót xa cho nhân vật đã thể hiện ngay trong những đường nét miêu tả đầu tiên về ngoại hình, dáng vẻ, cử chỉ, thái độ. Người đàn bà hàng chài "trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch...rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ". Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lé gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm vui. Trên "gương mặt mệt mỏi, tái ngắt ấy" dường như còn không mảy may chút sức sống. Sự nghèo khổ, nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong "tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng" vì khi rời khỏi thuyền "phải lội qua quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối". Sự khốn khổ của chị còn hiện ra trong dáng vẻ "lúng túng, sợ sệt" ở toà án huyện, thậm chí khi Đẩu phải mời tới lần thứ hai chị "mới dám rón rén đến ngồi ghét vào mép chiếc ghết và cố thu người lại" - hình như đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là phi lí, luôn mặc cảm và muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức mà mình có thể gây ra cho mọi người. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa đến cho người đọc chính là thái độ cam chịu, nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến bên chiếc xe rà phá mìn, chị "đứng lại ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước, chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ đang gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận năng" của người chồng vũ phu, thô bạo. Vì thế nên dù đã chấp nhận, chị không nén nổi cay đắng - cử chỉ của chị như muốn tìm đâu đó sự thay đổi hay trì hoãn dù chỉ một thoảng, nhưng rồi cũng chị cũng hiểu rằng đó là điều không thể, cánh tay chị "buông thõng" chán chường, cặp mắt nhìn xuóng chân cam chịu và mệt mỏi. Khi bị chồng đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với "một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy". Đó là thái độ của một người đang thực hiện những nghĩa vụ cực khổ của mình - không cán thán, bất bình nhay tránh né.

Sau này, qua câu chuyện của chị với Đẩu, Phùng, người đọc càng xót xa hơn cho thân phận con người khốn khổ ấy khi hiểu nguyên nhân thái độ cam chịu, nhẫn nhục tới kì lạ của chị. Chị chấp nhận chịu đòn, tất nhiên không phải vì dạn đòn , càng không phải để trả giá cho những tội lỗi sai lầm của mình, cũng không phải vì quá dốt nát đến mức không còn chút ý thức về bất hạnh; về quyền sống như một con người - chị lặng lẽ chịu đựng những đau đớn vể cả thể xác và tinh thần chỉ vì "bất kể lúc nào lão thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu ... Giá mà lão uống rượu ... thì tôi còn đỡ khổ ...Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được lão .. đưa tôi lên bờ mà đánh..." Vậy là cùng một lúc, người đàn bà hàng chài không chỉ chịu đựng những vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh mà còn phải gánh vác thêm những u uất, khổ sở của người chồng khi lão không còn đủ sức để chịu đựng một mình.

Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về thể xác với những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu àm còn giày vò nặng nề về tinh thần bởi sự nhục nhã khi bị đối xử như một con vật; bởi luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương, bởi sự đau khổ khi luôn phải chứng kiến đứa con trai vì quá thương mẹ mà căm ghét đánh lại bố. Miêu tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc, vừa phải "chắp tay vái lấy vái để đứa con" để nó đừng phạm phải một tội ác trái với luân thường đạo lí, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự xót thương cho nỗi đau khổ cùng cực mà con người có thể chịu đựng. Người đàn bà đã không trốn chạy khi bị chồng đánh đập dã man trên bờ biển . Chị càng không có ý định tự giải thoát mình khỏi người chồng tàn bạo ấy. Sự chịu đựng của chị không phải chỉ trong một, hai lần chịu đòn mà kéo dào trong suốt cả cuộc đời. Chị khẩn thiết van xin không phải li hô dù biết rằng những trận đòn cũng sẽ tiếp diễn với cuộc sống ấy, bên người chồng ấy. Hình ảnh người đàn bà "chắp tay vái lia lịa quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó" cho thấy sự cay đắng trong số phận con người - giữa các lựa chọn, chị chấp nhận chịu đựng những đầy ải , những đòn roi của chồng "vì nỗi vất vả của người đàn bà trên một con thuyền không có đàn ông" còn đáng sợ hơn cả đòn roi đầy ải; cuộc mưu sinh trên biển cả luôn tiềm ẩn những đe doạ thậm chí còn khủng khiếp hơn cả những đau đớn về thể xác, tinh thần do người chồng mang đến. Nếu "tiếng thở dài" đầy chua chát của Đẩu đã gợi ra rất cả những bất lực của thiện chí, những bế tắc của kiếp người.

Câu chuyện của người đàn bà hàng chài giúp người đọc hiểu ra nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống của gia đình chị chính là tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dào trên mặt biển gây ra tâm lí bế tắc, u uất. Trước năm 1975, mỗi khi biển động "cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối", từ khi Cách Mạng về, cuộc sống của họ đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo chưa lúc nào buông tha. Cuộc sống của những người ngư dân trên biển hoá ra không hề thơ mộng, lãng mạn như bức tranh trong thời xưa về hình ảnh "thuyền ngư phủ lạc trong sương" (Xuân Diệu) mà vất vả, lam lũ vì gánh nặng mưu sinh, bế tắc cùng quẫn vì hơn chục con người chen chúc trên một chiếc thuyền chật chội, tăm tối, nhục nhã vì tình trạng thất học và bạo lực nặng nề...Đề bi kịch thương ngày của người đàn bà hàng chài diễn ra sau những bãi xe tăng đổ nát của chiến trường xưa, có lẽ NMC muốn gợi ra cho người đọc những lo âu, suy ngẫm: Cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối và bạo lực còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại sâm. Chừng nào chưa thoát khỏi đói nghèo thì chừng đó con người còn phải sống chung với cái xấu, cái ác. Chúng đã đổ xương máu bao nhiêu năm qua để giành được độc lập, tự do trong "cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc", cho quyền sống của từng con người, để đem lại cơm cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa đến cho biết bao con người vẫn đang chìm đắm trong kiếp sống tăm tối, đói nghèo.

Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà làng chài quê mùa thất học có "con mắt như đang nhìn suốt cuộc đời mình", có "sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời", đã khiến các anh trở nên nông nổi, ngây thơ. Những sự giận giữ, bất bình, thấm đẫm lòng nhân hậu, những lời khuyên đầy thiện chí, những giải pháp tưởng như đúng đắn: "Cả nước này không có người chồng nào như hắn...chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu" đều lần lượt vấp phải những lí lẽ bình dị, nghiệt ngã và không thể thay đổi của hiện thực cuộc sống. Chị chỉ rõ sự thiếu thực tế của họ "lòng các chú tốt nhưng các đâu có phải là người làm ăn cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc". Chị cũng cho họ thấy dự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong cuộc sống bấp bênh và luôn tiềm ẩn những đe doạ bất thường trên mặt biển: "Các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông"..."đàn bà hàng chài chúg tôi cần có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con"...Chị còn giúp Đẩu và Phùng nhận ra tình trạng luẩn quẩn bế tắc trong cuộc sống của một ngư dân trên biển: Ở thuỳen thì bực bộc, bức bối nhưng lên bờ thị lại phải bỏ nghề mà sự phụ thuộc của họ lại gắn chặt với nghề này vì vậy những chính sách của Nhà nước nhiều khi cũng trở nên bất cập với thực tế cuộc sống của họ: "làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có làm được cái thuyền lưới vó. Từ ngày Cách mạng về, Cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở vì không bỏ nghề được!". Trước kết luận chua chát của Đẩu về cái nghịch lí xót xa: "Trên thuyền phải có một người đàn ông dù hắn man rợ tàn bạo", người đàn bà sông nước có một lời đáp thật sâu sắc, chân tình mà thắt vào lòng người đọc bởi những chiêm nghiệm rút ra từ một cuộc đời gian truân vất vả: "Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú!", tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của cả hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế ... đã tạo ra sự đối sánh với người đàn bà từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu những sự có thể và không thể của cuộc sống đời thường. Sự sâu sắc cảu chị chiến người đọc khâm phục nhưng cũng xót thương hơn cho một kiếp người.

Chị chịu đựng những trận đòng tàn nhẫn của chồng không chỉ vì bản tính nhẫn nhục cam chịu mà con như một cách giúp lão làm vơi đi những u uất, khổ sở chất chứa trong lòng. Chính vì thế, mà chị hoàn toàn tự nguyện, lặng lẽ theo chồng lên bờ, lặng lẽ đi vào sâu phía sau bãi xe tăng , lặng lẽ đứng lại chờ trận đòn giận dữ như lửa của chồng, lặng lẽ chịu đòn "không hề kêu một tiếg, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy", để rồi sau đó đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng đuổi theo gã đàn ông. Cả hai người trở về thuyền, đó là cách cư xử của một người đang cố gắng thể hiện những bổn phận, nghĩa vụ của mình dù đó là những bổn phận, nghĩa vụ phi nhân tính. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng, thậm chí còn mang một mặc cảm có lỗi khi cho rằng "lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật". Người vợ hiểu rõ nỗi hi sinh, nhọc nhằn trên mặt biển đầy sóng gió, sự nghèo đói, túng quẫn trên một con thuyền chật chột, những cay đắng bế tắc triền miên đã vượt khỏi giới hạn chịu đựng của con người khiến "Anh con trai cục tính nhưng hiền lành" không bao giờ đánh đập vợ đã dần trở thành lão chồng vũ phu, độc ác không phải vì thù ghét gì người vợ khốn khổ, lão đánh vợ như người khác uống rượu cho quên nguôi nỗi cơ cực của mình. Nếu cả Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu, nhẫn nhục của người vợ thì khi hiểu ra nguyên nhân của thái độ ấy họ lại càng kinh ngạc về sự nhân hậu vị tha trong tấm lòng người đàn bà hàng chài cũng lớn lao kì lạ bởi mức "không thể nào hiểu được" - cảm động nhất là vẻ đẹp của tình mẫu tử trong trái tim người đàn bà hàng chài.

Tình mẫu tử được chị coi như một thiên tính dương nhiên nhiên của người phụ nữ: "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được".

Chính tình thương yêu sâu sắc với con cái đã khiến chị phải nhẫn nhục, chịu đựng đầy ải tàn nhẫn của người chồng để con thuyền có đàn ông khoẻ mạnh, biết nghề cùng mình "chèo chống khi phong ba" để cùng làm ăn nuôi nấng con cái, cũng vì thương con sợ các con bị tổn thương vì cảnh bạo lực đau lòng mà chị phải xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh; rồi vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác, "Sao thằng bé có thể làm những điều dại dột với ba nó", mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị yêu thương nhất lên rừng sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như cũng chẳng bao giừo để lộ rõ rệt ra bên ngoài".

Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ chịu đựng như một người câm, vậy mà khi thằng Phác lao tới đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi đau đớn. Chị "mếu máo" gọi con, "ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy". Thằng bé đã từng "như một viên đạn bắn vào tâm hồn người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà , làm rỏ xuóng những dòng nước mắt". Tới khi nói chuyên vơí Đẩu và Phùng, nhắc tới thằng Phác, chị vẫn khóc - tiếng khóc của tình thương con nỗi đau đớn quặn thắt trong trái tim người mẹ: nỗi đau khi không che chắn nổi cho tuổi thơ các con được trong sáng, đau thêm nỗi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình, càng đau hơn bởi nỗi sợ hãi cho sự phát triển tính cách của con trong môi trường tăm tối, bạo lực..., bao trùm lên tất cả là nỗi đau của người mẹ yêu thương con, mong con khôn lớn mà lại không thể đem đến cho con cuộc sống no ấm, bình yên.

Tình mẫu của chị không chỉ được thể hiện qua nước mắt mà còn thể hiện ra qua niềm vui vùi dẫu hiếm hoi, ít ỏi - những niềm vui chắt ra từ những cay đắng, nhọc nhằn...Khi chắc tới những lúc vợ chồng con cái sống hoà thuận trên thuyền, "khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười". Cam chịu, nhẫn nhục vì con, lam lũ vất cả vì con, cho nên riêg niềm vui của chị cũng xuất phát từ con cái, chị bày tỏ chân thành, cảm động: "vui sướng nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Nhân vật người đàn bà hàng chài còn đem đến cho người đọc những ấn tượng thật đặc biệt. Luôn ý thức sâu sắc về thân phận, về ý nghĩa cuộc sống, về thiên chức cảu mình, đó là những nguyên nhân khiến chị có thể chịu đựng tất cả những lúc khó khăn, thử thách, từ những lam lũ, vất vả của đói nghèo đến những đau đớn khổ ải trong bi kịch gia đình, lấy sự chịu đựng phi thường của mình, cố gắng che chở cho sự bình yên của gia đình, bảo vệ niềm tin trong trẻo, ngây thơ ấy cho tâm hồn con trẻ, gánh đỡ cho chòng những nhọc nhằn, cay dắng - dù những cố gắng ấy vẫn luôn thất bại ê chề trước sự khắc nghiệt của cuộc sống. Mỗi khi nhìn lại bức ảnh về "Chiếc thuyền ngoài xa", bao giờ nghệ sĩ Phùng "cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giẫm trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn trong đám đông...". Đó là hình ảnh những con người vô danh, khốn khổ, lầm lũi, họ đã vượt lên tất cả những gian truân cay đắng của cuộc đời, không phải vì mình mà vì những người thân yêu - lí do để họ sống và chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của họ.

Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếcthuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.

Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”.Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người. Nhà phê bình Nikolai Nikulin cũng từng nhận xét: "Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh (Nguyễn Minh Châu) đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng".

Có thể nói hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn muốn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời. "Đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý" (Tô Hoài).

Xem thêm: Chi tiết "tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm" - Chiếc thuyền ngoài xa

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận