Ôn thi tốt nghiệp: Tặng 2k6 bộ đề cương 9+ các tác phẩm thơ trọng tâm

Dưới đây là những bài phân tích chi tiết cho từng tác phẩm trọng tâm trong chương trình Ngữ văn 12 mà các bạn học sinh 2k6 không thể bỏ qua.

Đỗ Thu Nga
15:00 28/05/2024 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Đất Nước

– Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.

– “Đất nước” là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.

– Chín câu thơ đầu của đọan thơ :

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

……………………………………

Đất Nước có từ ngày đó”.

Là những cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất nước qua những hình tượng cụ thể, sinh động,gợi cảm sôi nổi và thiết tha.

II/ Thân bài :

* Tòan đọan thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng…, nhà thơ giúp cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự hình thành của Đất nước một cách sâu sắc.

* Trước hết,ở hai câu thơ đầu của đọan thơ, Tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước.Đất nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà thơ đã viết :

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi,

Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.

Tham vọng tính tuổi của Đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái “ngày xửa ngày xưa” ( thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừư tượng, không xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc huyền thoại. Song chính ở “cái ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ đã giúp cho chúng ta nhận thức được : Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết .Chỉ biết rằng : khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu.

Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ còn nỗ lực hình dung về khởi đầu và quá trình trưởng thành của đất nước :

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Phải chăng, khởi thủy của đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Ở đây, hình ảnh “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ. Bởi lẽ,“miếng trầu”là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước.

Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống lao động cần cù vất vả của nhân dân :

“Tóc mẹ búi sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên,

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…”.

Đọan thơ, bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng , nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh “tóc mẹ búi sau đầu”, gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt; và những câu ca dao xưa ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ chồng “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Không những vậy, hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về đất nước gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bản…

* Có thể nói,đọan thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước – một câu hỏi quen thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ : nhà thơ không tạo ra khỏang cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những hình ảnh mĩ lệ , mang tính biểu tượng để cảm nhận và lý giải , mà dùng cách nói rất đỗi giản dị,tự nhiên với những gì gần gũi , thân thiết , bình dị nhất.

Gịong thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp : Đất nước đã có; Đất Nước bắt đầu; Đất Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ Đất Nước ( vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về đất nước , quê hương của mình.

III/ Kết bài :

Tóm lại, chín câu thơ mở đầu cho đọan trích “Đất Nước” đã thật sự để lại những ấn tượng và cảm xúc sâu sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của đất nước. Bởi lẽ, đọan thơ đã giúp cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà còn có những nhận thức mơ hồ về đất nước mình thật sự phải suy gẫm.Bởi lẽ, đọan thơ còn cho chúng ta hiểu được đất nước thật thân thương và gần gũi biết nhường nào .Từ đó đọan thơ bồi dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu đất nước, quê hương mình và biến tình yêu ấy bằng thái độ, hành động dựng xây , bảo vệ đất nước.

Việt Bắc

Việt Bắc ( phân tích chuyên sâu )

Phân tích bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu

Tố Hữu là nhà thơ chính trị , là lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Dù những tác phẩm thơ ca của ông thường viết về Đảng, về cách mạng hay chiến tranh nhưng thơ Tố Hữu không hề khô khan ,cứng nhắc,ngược lại thơ ông luôn tha thiết và thấm đẫm tình người. Đúng như Chế Lan Viên từng nói : “ Thơ Tố Hữu là thơ Cách mạng chứ không phải thơ tình yêu …nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân,anh nói các vấn đề bằng trái tim của một người say đắm.”. Trong đó , Việt Bắc là một trong những đỉnh cao thơ Tố Hữu ,cũng là một trong những thi phẩm xuất sắc của Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.Tố Hữu đã xây dựng nên một bài thơ nói về tình nghĩa đối với quê hương cách mạng, là tiếng nói của tình cảm ,tình yêu đối với quê hương ,đất nước,đối với nhân dân .

Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10/1954, đây là giai đoạn chuyển giao khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, các cán bộ chiến sỹ rời chiến khu Việt Bắc quay trở lại thủ đô Hà Nội. Bài thơ được đặt vào một hoàn cảnh rất đặc biệt , đó là cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những con người đã từng gắn bó khăng khít, tình nghĩa cùng gánh vác trên vai nhiệm vụ dân tộc. Mối tình giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc được Tố Hữu diễn tả như một mối tình riêng.Ông đã mượn thể hát đối đáp rất dân tộc,ngôn ngữ đậm đà màu sắc để thể hiện tình cảm của mình, qua đó khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng, con người Việt Bắc ân tình, ân nghĩa.

on-thi-tot-nghiep-tang-2k6-bo-de-cuong-9-cac-tac-pham-tho-trong-tam-9

Mở đầu bài thơ là lời hỏi đáp của người ở lại và người ra đi nhằm khơi gợi những kỉ niệm ân tình giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ về xuôi trong suốt mười lăm năm gắn bó keo sơn . Bốn câu thơ đầu là lời của nhân dân Việt Bắc hỏi người ra đi :

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Câu thơ mở đầu mang âm hưởng của ca dao, dân ca chan chứa tình thương của người ở lại với người ra đi , hỏi để gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó. Trong câu hỏi này “mình” là chỉ người ra đi , “ta” là người ở lại . “Mình” ở đầu câu , “ta” ở cuối câu ,tưởng xa mà gần bởi được liên kết bởi từ “nhớ”. Nỗi nhớ ấy bắt nguồn từ cơ sở “ mười lăm năm ấy” .Người ở lại hỏi người ra đi có nhớ tới những lần đồng cam cộng khổ , gắn bó cùng nhau chia ngọt xẻ bùi với mình hay không ? Bốn chữ “ thiết tha mặn nồng” đã cho thấy phần nào tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung , sâu nặng . Bởi vậy hỏi nhưng mục đích chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi là để thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như mình .Nếu như hai câu thơ đầu là lời gợi nhắc về kỉ niệm “mười lăm năm ấy” gắn bó , thì ở hai câu thơ sau là lời nhắc nhở chân tình và cũng là lời dặn dò kín đáo của người ở lại . Câu hỏi tu từ thứ hai đã hướng ta tới không gian , đối tượng hỏi không còn bó hạn hẹp trong mối quan hệ mình-ta nữa mà nỗi nhớ đó đã hướng vào cả cây , sông và núi ,nguồn. Không gian đó với người ra đi và người ở lại đều chứa đựng những kỉ niệm gắn bó khó quên. Động từ “nhớ” và “nhìn “ được điệp lại hai lần ,tác động mạnh vào cảm xúc của con người . Phải chăng cách gợi nhớ khéo léo này chính là lời dặn dò,mong muốn rất đỗi kín đáo của người ở lại : Việt bắc là cội nguồn của cách mạng là quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa , xin người về đừng quên . Qua bốn câu thơ , ta thấy được cách vận dụng từ ngữ linh hoạt của Tố Hữu , ông đã vận dụng rất khéo léo đạo lí “ Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc để nhắc nhở con cháu đời sau không được quên công ơn của thế hệ cha ông đi trước.

Sau lời hỏi để gợi nhắc một cách khéo léo của người ở lại là lời giãi bày, bộc bạch cảm xúc của người ra đi . Dù không trực tiếp nhưng đầy bâng khuâng ,xao xuyến:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Những cặp từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý nhớ thương, luyến tiếc khiến lòng chẳng thể yên. Như Tú Xương đã viết:

“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”...

Tiếng “ai” ấy lại chất chứa biết bao yêu thương, chẳng thể chỉ cụ thể một người, bởi tình cảm ấy là dành cho cả một đồng bào Việt Bắc. Tố Hữu đã khai thác tiếng “ai” ấy một cách xuất sắc, khi để lại âm vang trong lòng người về. Nó khiến cho tâm trạng con người càng trở nên nôn nao, những dòng cảm xúc cứ ào về không thôi.Cách ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối đối lập giữa bên trong và bên ngoài là cho hiệu quả diễn đạt thêm xúc tích . Tâm trạng bâng khuâng bồn chồn ấy còn được thể hiện hết sức tinh tế qua nhịp điệu hai câu tiếp theo:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Cặp thơ lục bát được tác giả góp thêm một chút nhịp điệu, như một đảo phách trong âm nhạc. Màu “áo chàm” đặc trưng của những con người chân chất miền núi Tây Bắc. Hình ảnh thấy thật đơn sơ, mộc mạc của chốn quê nghèo, nghèo vật chất những luôn giàu tình cảm. Tấm áo ấy đã chất chứa biết bao mồ hôi, khó khăn vất vả, một nắng hai sương để chiến đấu, nuôi dưỡng các anh lính cụ Hồ để các anh an tâm đánh giặc. Chẳng phải áo bào, áo gấm để tiễn đưa, cảm ơn công lao của các anh, chỉ là bóng dáng của những con người lao động nhưng sao vẫn khiến cho ta không khỏi cảm kích, biết ơn. Tình cảm bịn rịn ấy còn được thể hiện qua hình ảnh “cầm tay”. Cầm tay là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết , cầm tay để nói lên cảm xúc trong lòng .Nó giống như một nốt nhạc trầm trong một khuôn nhạc bổng ,là nhịp rơi của cảm xúc sâu lắng . Đoạn thơ mở đầu của bài Việt Bắc đã vẽ nên những cung bậc cảm xúc hết sức đa dạng, sâu lắng của người đi kẻ ở. Nhịp thơ nhẹ nhàng, du dương để diễn tả một cách trọn vẹn, khéo léo những tình cảm chân thành ấy đã cho thấy tài năng nổi bật của Tố Hữu trong số những thi sỹ tài hoa của Việt Nam.

Có thể nói Việt Bắc không chỉ là khúc tình ca mà còn là khúc hùng ca thể hiện ân tình của nhà thơ đối với khu căn cứ địa của cách mạng Việt Bắc .Điều này được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai – lời tâm tình của người dân Việt Bắc về những ngày kháng chiến đã đồng cam cộng khổ cùng cán bộ trong suốt mười lăm năm :

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa

Bốn câu thơ đầu là lời nhắc nhở về kỉ niệm trong kháng chiến gian khổ mà cán bộ và nhân dân Việt Bắc đã cùng nhau trải qua .Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần cùng hai câu hỏi tu từ “có nhớ những ngày” đã gợi nên những kỉ niệm gian khổ nhưng vô cùng tình nghĩa.Mình có còn nhớ không những ngày tháng khắc nghiệt ấy “ mưa nguồn , suối lũ ,mây mù”, những lúc thiếu thốn ,ảm đạm “ ăn tuyết nằm sương” mà cán bộ và nhân dân đã trải qua .Nhưng những gian khổ ấy đã gắn kết “mình-ta” lại với nhau có phúc cùng hưởng ,có nạn cùng chịu. , dạt đi những khó khăn để cùng thực hiện nhiệm vụ là bảo vệ đất nước .Ở đây cái chung luôn đặt lên trên cái riêng ,đó là tinh thần lớn của thời đại

Bốn câu thơ tiếp theo người Việt Bắc tiếp tục khắc ghi vào lòng người đi những câu hỏi tu từ khơi gợi nên những kỉ niệm gắn bó với núi rừng, thiên nhiên và con người nặng tình nặng nghĩa.Ẩn sâu trong bốn câu thơ người Việt Bắc hỏi người ra đi như còn chưa thỏa mạn,họ còn hỏi chính mình . Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “ Rừng núi nhớ ai” để chỉ người dân Việt Bắc và nỗi nhớ da diết của người dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến , với Đảng , chính phủ….Ở đây không chỉ có con người mang nỗi nhớ mà đến cả thiên nhiên cũng rất nặng tình nghĩa .Mình về khiến núi rừng bỗng trở nên trống vắng , ngay cả “tram bùi”, “măn mai” mà cũng không ai thu hái. Không chỉ gợi kỉ niệm với thiên nhiên mà người dân Việt Bắc còn gợi kỉ niệm với con người làm cho cảm xúc càng thêm xao xuyến khôn nguôi.Nhà thơ đã hướng nỗi nhớ của mình về những con người Việt Bắc qua câu thơ “ Hắt hiu lau xám , đậm đà lòng son”. Câu thơ đã sử dụng biện pháp đảo ngữ , làm nổi bật hơn khung cảnh vắng vẻ , hoang sơ nơi núi rừng . Nhưng đối lập lại bên trong những căn nhà ấy lại ẩn chứa tấm lòng thủy chung son sắc của nhân dân.

Bốn câu thơ cuối người Việt Bắc đã gợi nhắc lại những sự kiện lịch sử gắn với những địa danh , những tên gọi đã trở thành điểm mốc của chiến đấu: Tân Trào , Hồng Thái …nhằm nhắc nhở người về xuôi rằng Việt Bắc là nơi có mặt trận Việt Minh lãnh đạo Cách mạng đánh đuổi giặc Pháp ,là khu căn cứ quan trọng của cách mạng. Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi tu từ sâu sắc chứa đựng ẩn ý rằng giữa người Việt Bắc và cán bộ đã có sự gắn kết tha thiết , hòa nhập vào nhau làm một.

Khổ thơ tiếp theo là lời thề son sắt , thủy chung và nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng ,trữ tình ,là lời bộc bạch trực tiếp của cán bộ về xuôi đối với người dân Việt Bắc :

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi….

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình cảm dạt dào và nghĩa tình sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng. Người chiến sĩ còn nhớ đến vầng trăng tròn đầy sau những rặng núi xa sau bản, nhớ những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh đồng ruộng bậc thang ngào ngạt mùi lúa chín, nhớ những sáng tinh sương mịt mù trong mây và khói tỏa, nhớ từng dòng suối cánh rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại một lần nữa hiện lên qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà chẳng nhớ về. Ở đây chỗ sâu sắc nhất trong tình nghĩa gắn bó giữa nhân dân và cán bộ là tình cảm yêu thương đùm bọc, cùng san sẻ từng củ sắn , miếng cơm,manh áo ,tấm chăn …. Vật chất ít ỏi nhưng tình người lúc nào cũng đong đầy.Các chi tiết nghệ thuật ở đây vừa có tình hiện thực ,vừa có tính khái quát. . “ Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày tháng đen tối ấy, chính là vì nó nói với trái tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thực sự. “Xuân Diệu quả thật nói không sai , đọc thơ Tố Hữu dù ông đang viết về những khó khăn , thiếu thốn khi tham gia chiến đấu nhưng tinh thần cách mạng, ý chí kháng chiến luôn hiện hữu trong từng lời thơ , làm cho ý chí nhân dân càng mạnh mẽ. Đặc biệt sự xuất hiện hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy đã khắc họa thành công hình tượng người mẹ lam lũ ,vất vả cùng đức hi sinh cao quý cho cách mạng của những người mẹ Việt Bắc.Nhớ Việt Bắc còn là nhớ âm thanh đặc trưng : tiếng mõ rừng, tiếng chày,… âm thanh của sự thanh bình yên ả ở Việt Bắc . Cả đoạn thơ tác giả đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ, tình cảm của người cán bộ đối với nhân dân Việt Bắc một cách đầy tha thiết,chân thực . Kết cấu thơ trùng lặp làm ta nhớ tới những câu ca dao xưa :

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than

Khổ thơ tiếp theo là bức tranh tứ bình đa màu sắc hòa quyện giữa thiên nhiên và con người được Tố Hữu miêu tả bằng ngòi bút trữ tình đặc sắc ;

"Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Hai câu thơ đầu mang cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi về Việt Bắc nhưng sau đến với những câu thơ tiếp theo là một bức tranh về thiên nhiên đầy màu sắc . Bức tranh thứ nhất:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn thiên nhiên Việt Bắc. Trên cái nền xanh bạt ngàn của núi rừng đại ngàn, nổi bật lên hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi. Bởi thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh, thật là một nét tài tình của Tố Hữu thể hiện trong thơ. Nghệ thuật điểm xuyết của tác giả còn trở lên độc đáo hơn: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyển động. Bức tranh thứ hai

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Khác hẳn với bức tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:

Ngày xuân mở nở trắng rừng

Cách điệp âm (mơ/nở; trắng/rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn nhẹ nhàng và thanh thoát. Ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả độc đáo ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.

Trên cái nền không gian rộng lớn và háo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt độnh có vẻ tỉ mỉ:

…Người đan nón chuốt từng sợi giang.

Đó là hình ảnh thực. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh người đan nón chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ như gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng dễ nhận thấy của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhặt, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc sâu trong tâm khảm. Bức tranh thứ ba

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Câu thơ mở đầu bằng âm thanh tiếng ve như giúp người đọc cảm nhận được đã có bước biến chuyển về thời gian sang hè. Ý thơ trong câu tơ như vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc sinh động ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quỵên, cùng tôn vinh lẫn nhau. Đan hòa vớin hau mà làm nổi bật lên cho nhau. Và chính sự hài hoà đó đã tạo nên chất thơ ân tình của Tố Hữu. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trưng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực tại.Bức tranh thứ tư

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian “ rừng thu”. Ứng với mỗi câu thơ đặc sắc và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Không ngoại lệ câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ bức tranh thu là bức tranh cuối của bộ tứ bình cũng là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông, rộng lớn nhưng hề không lạnh lẽo. “Trăng rọi hoà bình” là hình ảnh vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có niềm tin, tự do. Và trong cuộc sống đó còn có cả tình nghĩa thủy chung khi đã có tự do thì ta vẫn không quên những ngày gian khó.

Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật cùng với thể thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào,sâu lắng. Cách miêu tra hình ảnh sống động, nhiều phép liệt kê,phép điệp tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu hình tượng về thiên nhiên và con người Việt Bắc , mở rộng hơn nữa là tình yêu quê hương , đất nước của tác giả. Quả thật đúng như ông đã từng nói “ Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống thật đầy” , ông đã thể hiện rất sâu sắc tình yêu đối với nơi núng rừng Việt Bắc , nơi gắn bó suốt chặng đường hoạt động cách mạng của mình .

Sau những câu thơ miêu tả về thiên nhiên thơ mộng nơi đây thì tác giả lại tập trung viết về nỗi nhớ khi hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi của mình :

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…

Trong những ngày tháng kháng chiến gian khổ ở giai đoạn phòng ngự , bộ đội ta phải dựa vào dân , dựa vào rừng núi để đánh giặc . Trong bốn câu thơ đầu , “rừng”, “núi” được lặp lại đến năm lần tạo nên tình thế hiểm của tường thành lũy thép vây bọc quân thù.Phép nhân hóa “ rừng núi cùng ta đánh Tây” cho thấy sự đồng lòng cùng con người đánh giặc đồng thời thể hiện tình cảm của con người và thiên nhiên . Với sự đồng lòng , đồng sức tất cả đã tạo nên một khối đoàn kết vững chắc. Khí thế ấy đã tạo nên những chiến thắng vẻ vang , hàng loạt địa danh vang lên , mỗi nơi đều là một chiến tích thắng lợi . Điệp từ “nhớ” cùng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng đã diễn tả dào dạt nỗi nhớ của tác giả về những lần hoạt động cách mạng cùng nhân dân và đồng đội. Chế Lan Viên cũng từng viết về sự gắn bó với chiến khu :

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn

Nhưng trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ man

Dân công đuốc đỏ từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp An Khê

Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.

Đoạn thơ là không khí ra trận và tin vui chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.Câu thơ vang lên rất đỗi tự nhiên tạo cảm giác khỏe khoắn,hùng tráng chứa đầy niềm kiêu hãnh.Đó là niềm tự hào về những con đường Việt bắc đã và đang được giải phóng sau bao ngày tháng kháng chiến vất vả . Những từ láy “ đêm đêm”, “ rầm rập” cùng phép so sánh đất rung tất cả đã tạo nên một bức tranh tổng hợp của sức mạnh đoàn kết dân tộc. Đoàn quân nối dài trên những con đường Việt Bắc thật hùng vĩ như vươn rộng khắp mọi nẻo đường . Hình ảnh “ánh sao đầu súng” làm ta liên tưởng tới chi tiết “ đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu , đây là một hình ảnh thực mang vẻ đẹp lãng mạn khi người lính hành quân trong đêm, những ngôi sao sang trên trời cùng làm bạn . Nguyễn Đình Thi cũng từng viết về khung cảnh lãng mạn ấy :

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh

Soi sáng đường chiến sĩ giữa hàng quân

Ngọn đuốc trên tay quân dân không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy mà nó còn thắp lên cả những thế hệ, thắp lên tương lai, thắp lên niềm tin và hi vọng về một chiến thắng không xa. Sức mạnh của cả một đoàn quân khí thế đến nỗi có thể làm cho đá nát lửa bay không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Bằng nghệ thật phóng đại cường điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để rồi giờ đây chỉ qua những dòng thơ ngắn gọn, ta như trở về với một thời hào hùng của cha ông. Giữa bóng tối vây quanh ngọn đèn pha như thắp lên niềm tin niềm hi vọng của quân dân về một tương lai tốt đẹp hơn.Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu gian lao và khổ cực quân và dân ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Hạnh phúc vỡ òa không từ ngữ nào có thể diễn tả. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên, nhân dân như vui cùng một niềm hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt sự đoàn kết không thể nào phá rời của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.Nếu ở Tây Tiến những địa danh căn cứ của bộ đội ta được nhắc đến với niềm thương nhớ thì Tố Hữu lại gọi tên những địa danh gắn với những chiến công lẫy lừng làm bừng tỉnh lòng người. Có thể nói đây là điểm độc đáo trong thơ Tố Hữu.

Đoạn thơ cuối khép lại là cảnh Việt Bắc sau kháng chiến Điện biên phủ thắng lợi :

“Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Ðiều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”

Sau chiến thắng vẻ vang của toàn dân ta , khắp nơi hân hoan trong màu sắc rực rỡ tươi vui dưới ánh nắng và lá cờ đỏ sao vàng. Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và nhà nước “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca những công lao vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Việt Bắc thân thương, dù mai này đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ một góc trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.

Bài thơ Việt Bắc với những hình ảnh đẹp về thiên nhiên , con người Việt Bắc đã để lại ấn tượng đẹp trong lòng người đọc. Bằng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ ,hoán dụ , thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng , giọng thơ sôi nổi, Tố Hữu đã mang đến cho người đọc những cảm xúc khó tả , sự khâm phục tinh thần gắn kết , đồng lòng đánh giặc của quân và dân ta . Quả thật không sai khi nói rằng “ thái độ toàn tâm toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành công của nhà thơ Tố Hữu” ( Hoài Thanh ).

" Thơ là đi giữa nhạc và ý.Rơi vào vưc ý, thơ rất ăn sâu nhưng dễ khô khan. Rơi vào vực nhạc dễ say đắm lòng người nhưng dễ nông cạn. Tố Hữu là nhà thơ giữ thế quân bình giữa hai lưu vực ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, thức người trong ý"(Chế Lan Viên ). Tình yêu quê hương , đất nước cùng với nỗi niềm với nhân dân Việt Bắc đã tạo nên một áng thơ Việt Bắc đầy cảm xúc sâu lắng ,khiến ai đọc qua cũng phải xao xuyến ,bồi hồi. Bài thơ là một tác phẩm xuất sắc của Tố Hữu trong sự nghiệp thơ ca cách mạng và là một tiếng ca bất hủ trong lòng người yêu thơ ca Việt Nam. 

Sóng

Phân tích bài thơ Sóng- Xuân Quỳnh

Phạm Văn Đồng đã từng nói : “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy”. Là một nhà thơ nữ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ , Xuân Quỳnh được ưu ái với tên goi “ nữ hoàng thơ tình” cũng bởi lẽ những vần thơ của bà xuất phát từ tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương , luôn khao khát hạnh phúc bình dị . Bà viết rất hay , rất nhiều về tình yêu , nhưng có lẽ “ Sóng” là bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách sang tác của bà. Đến với “ Sóng” , nhà thơ đã vô cùng tinh tế, khéo léo khi mượn hình tượng sóng biển để bày tỏ những suy tư , trăn trở về tình yêu cũng như một trái tim đang khao khát tình yêu mãnh liệt.

Bài thơ “ Sóng” được Xuân Quỳnh sang tác năm 1967 , tại bãi biển Diêm Điền , được in trong tập thơ “ Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển, ẩn vào đó là những con sóng lòng đang kháo khát tình yêu mãnh liệt . Ở đây khát vọng tình yêu đã được bà thể hiện một cách rất riêng , rất chân thực , dù hình tượng sóng mà Xuân Quỳnh mượn làm ẩn dụ vốn chẳng xa lạ gì đối với nhiều nhà thơ.Trước Xuân Quỳnh cũng đã có biết bao nhà thơ thiên tài viết về tình yêu , nhưng Xuân Quỳnh hình như không đua tranh với họ . Bà “khiêm tốn” chỉ đem những cảm xúc, suy tư của mình để bày tỏ tiếng lòng của một người phụ nữ khi yêu .

Những cung bậc , trạng thái cảm xúc của người phụ nữ ấy được nhà thơ bộc lộ một cách sâu sắc qua khổ thơ đầu thật ấn tượng:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Như nhan đề bài thơ đã nói rõ , hình tượng sóng ở đây là hình tượng trung tâm , bằng nghệ thuật đối lập nhà thơ đã gợi lên vẻ đẹp của những con sóng biển với những trạng thái khác nhau : “ dữ dội và dịu êm” , “ồn ào và lặng lẽ” . Những lsuc bão tố , phong ba thì biển ồn ào, náo động , còn khi sóng gió qua đi biển lại trở về trạng thái yên ắng , với vẻ hiền hòa vốn có của mình . Căn cứ vào âm diệu dồi dào , nhiều biến đổi và thường là cuộn trào sôi nổi của bài thơ người đọc có thể thấy sóng là một hình tượng sống thực chứ không phải là một hình ảnh minh họa , là vỏ bọc của ý tưởng. Xuân Quỳnh đã ẩn dụ hình ảnh sóng nhằm để chỉ những cảm xúc của người con gái khi yêu , lúc thì hờn ghen lúc thì nữ tính , duyên dáng . Điệp từ “ và” kết nối giữa hai trạng thái cảm xúc làm cho cung bậc của sóng , những cung bậc trạng thái của người phụ nữ trở nên hài hòa . Những cảm xúc thay đổi không ngừng ấy cũng được Nhà văn Puskin miêu tả qua những câu thơ :

Em bảo anh đi đi

Sao anh không đứng lại

Em bảo anh đừng đợi

Sao anh vội về ngay

Lời nói thoảng gió bay

Đôi mắt huyền đẫm lệ

Sao mà anh ngốc thế

Không nhìn vào mắt em ?

Hai câu thơ sau nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa để nói đến hành trình đi tìm biển lớn của sóng “ Sông không hiểu nổi mình- Sóng tìm ra tận bể” . Sông là không gian chật hẹp , tù túng ; bể là khoảng không rộng lớn , mênh mông . Chính vì quá chật hẹp,tù túng nên sông không hiểu nổi những đam mê , khát vọng lớn lao của sóng. Em cũng như sóng, không cam chịu một tình yêu nhỏ bé , tầm thường mà sẵn sàng vươn tới tình yêu cao cả, rộng lớn .Đây là một quan niệm mới mẻ hiện đại trong tình yêu : tình yêu của người con gái hiện đại không thụ động khi yêu mà chủ động vươn tới những điều cao cả , lớn lao . Thật mạnh bạo , quyết liệt !

Nỗi khát khao tình yêu luôn rạo rực trong trái tim con người và trong quan niệm của nhà thơ : tình yêu mãi là khát vọng , là những rung động , bồi hồi trong nhịp đập trái tim tuổi trẻ . Điều đó được bộc lộ rất rõ nét qua khổ thơ thứ hai :

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

Thán từ “ôi” đã phần nào thể hiện những thổn thức của trái tim đang yêu khi nhận ra những quy luật muôn đời của sóng biển với những cung bậc trạng thái khác nhau . Từ ngàn đời xưa , con người đã đến với tình yêu như một chân lí không thể thay đổi . Xuân Diệu cũng từng nói “ Làm sao sống được mà không yêu – Không nhớ , không thương một kẻ nào “ . Chừng nào còn tuổi trẻ , chừng ấy khát vọng tình yêu vẫn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ . Nghệ thuật đối lập giữa con sóng “ ngày xưa – ngày nay” càng tôn thêm vẻ đẹp của sóng. Sóng là thế , luôn mang trong mình những cung bậc khác nhau như tình yêu đôi lứa không chịu đứng yên .

Đúng vậy, tình yêu luôn song hành với tuổi trẻ mỗi người, bởi đó là giai đoạn đẹp đẽ nhất của đời người , giai đoạn mà người ta nói “ Thanh xuân như một cơn mưa rào , dù bạn từng bị cảm lạnh vì tắm mưa thì bạn vẫn muốn được đắm chìm trong cơn mưa ấy lần nữa”.Tính từ chỉ trạng thái “ khát vọng – bồi hồi” diễn tả nhịp sống trong lồng ngực tuổi trẻ. Tình yêu là khát vọng , là ước mơ của biết bao người và tác giả cũng vậy , phải chăng những câu thơ ấy cũng là tiếng lòng của nữ nhà thơ , của một trái tim yêu đương mãnh liệt.

Đứng giữa không gian mênh mông , rộng lớn của biển khơi dễ làm cho con người trở nên nhỏ bé , choáng ngợp , chính điều đó làm cho cả nữ nhà thơ cảm thấy băn khoăn , trăn trở về tình yêu của mình . Khổ thơ thứ ba là những nỗi niềm trong tâm tư của bà :

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

Điệp từ “em nghĩ” được lặp lại hai lần nhằm nhấn mạnh nỗi niềm băn khoăn của nữ sĩ khi đứng trước không gian rộng lớn . Nghĩ về “ biển lớn” nghĩa là nghĩ về những điều lớn lao , về nguồn gốc bí ẩn của tự nhiên ; nghĩ về “anh, em” nghĩa là nghĩ về khởi nguồn tình yêu đôi lứa , về tình yêu của chúng ta . Sóng vì nhớ bờ mà vượt qua muôn trùng hải lí để hướng về bờ , liệu tình yêu của anh có đủ lớn để vượt qua khó khăn , sóng gió phía trước hay không ? Những suy nghĩ ấy, trăn trở ấy cuối cùng được dồn lại tạo nên câu hỏi tu từ “ từ nơi nào sóng lên?”. Đây cũng là tiền đề cho những suy tư của nhà thơ ở khổ thơ thứ tư :

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau ?

Ở khổ thơ này, nhà thơ đã lí giải nguồn gốc của sóng qua đó cũng tự bâng khuâng về sự khởi nguồn của tình yêu . Mọi quy luật tự nhiên đều có sự minh chứng, lí giải , sóng cũng vậy : sóng bắt đầu từ gió , gió bắt đầu từ sự di chuyển của không khí, từ nơi có áp suất cao xuống nơi có áp suất thấp . Thế nhưng nhà thơ lại không thể lí giải được nguồn gốc của gió , và đây cũng là nỗi băn khoăn trước bắt nguồn của tình yêu giữa “ anh và em”. Tình yêu không phải là một phép toán khô khan , cứng nhắc mà nó là một hiện tượng tâm lí khó lí giải “ Cái đẹp không ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong ánh mắt của kẻ si tình”. Người ta cũng thường đối chiếu hai câu thơ cuối của Xuân Quỳnh với câu “ Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” trong bài thơ Vì sao của Xuân Diệu . Tuy nhiên ở một sang tác khác thì bà cũng đã viết “…tình yêu muôn thuở , có bao giờ đứng yên”( Thuyền và biển). Trong tiềm thức của người phụ nữ ấy , tình yêu chân thành , không toan tính, vụ lợi thì càng yêu say đắm , càng khó lí giải.

Rồi cứ thế , sóng là nỗi nhớ của tình yêu . Quả thật , tình yêu bao giờ cũng gắn liền với nỗi nhớ , mà khi xa cách thì nỗi nhớ ấy càng tăng lên gấp bội . Qua khổ thơ năm và khổ thơ sáu , nữ thi sĩ đã bày tỏ nỗi nhớ , sự thủy chung son sắt của người phụ nữ trong tình yêu rất da diết , mãnh liệt :

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương

Sóng không chỉ mang trong mình trạng thái “ dữ dội và dịu êm” , “ ồn ào và lặng lẽ” mà ở đây ta còn được chứng kiến thêm “ con sóng dưới lòng sâu” , “con sóng trên mặt nước “ qua phép đối lập và lặp cấu trúc câu , nhà thơ đã tạo nên sự trùng điệp của những con sóng với những hình tượng khác nhau.Lần này , đối diện với biển lớn , Xuân quỳnh mới khám phá ra một điều giản dị mà cũng là một chân lí sâu xa : biển bao gồm những con sóng nổi và chìm , bởi mang hai thứ ấy mà biển chẳng bao giờ đứng yên. Sóng ở đây cũng là em , em là sóng , hai hình tượng này luôn đồng hành với nhau . Vì thế cũng như sóng, em và nỗi nhớ của em không đơn thuần là nhớ theo cảm tính mà nỗi nhớ ấy vừa có chiều sâu và chiều rộng . Nhà thơ đã vô cùng tinh tế khi mượn hình ảnh sóng động để ẩn dụ cho nỗi niềm , tâm tue của người phụ nữ khi yêu . Hai câu thơ sau , nhà thơ tiếp tục diễn tả nỗi nhớ của sóng , dù ở trên mặt nước hay dưới lòng sâu thì tất cả đều nhớ đến bờ , đều hướng về bờ “ ôi con sóng nhớ bờ -ngày đêm không ngủ được”. Sóng mang trong mình nỗi nhớ và sóng chính là nỗi nhớ. Tuy nhiên , điều thú vị ở chỗ : đã là sóng thì bao giờ cũng thức …sóng không ngủ. Vì lí do này mà ta thấy sóng là nhịp đập của biển , là sự sống của biển. Đối với Xuân Quỳnh chỉ vì sóng nhớ bờ da diết mà không ngủ được , từ đó nữ sĩ liên tưởng đến trái tim người phụ nữ khi yêu . Và thật bất ngờ , thi sĩ đã khám phá ra mình trong đó

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Khi ẩn mình trong “sóng” , khi đứng hẳn ra xưng “em” , một mà hai, hai mà một , cái “tôi” của Xuân Quỳnh luôn trăn trở , thao thức . Xuân Quỳnh đã mạnh dạn bày tỏ nỗi nhớ của mình một cách trực tiếp , điều đó cho thấy nét hiện đại trong quan niệm tình yêu của nữ thi sĩ . Điều đó cho thấy tình yêu của em dành cho anh phải mãnh liệt đến nhường nào mới có thể làm được như vậy . Sự tương đồng giữa hình tượng “ sóng” và “em” , giữa một hiệ tượng tự nhiên và một trạng thái của con người, đó là nỗi nhớ , nhớ bờ , nhớ anh , là quy luật của tự nhiên. Nỗi nhớ ấy thường trực mọi không gian , thời gian , len lỏi vào tiềm thức , cả trong “mơ còn thức” .

Sau khi thể hiện nỗi nhớ trực tiếp , chân thành thì nhà thơ tiếp tục bày tỏ sự thủy chung son sắt của mình trong tình yêu qua khổ thơ thứ sáu. Đầu mỗi câu thơ , nhà thơ đã sử dụng phép đối “ xuôi-ngược” “ Bắc – nam” như gợi nên sự gian nan, vất vả cần vượt qua khi chúng ta yêu nhau . Qua đó nhà thơ cũng đưa ra lời nhắc nhở : cuộc đời dẫu có thế nào đi nữa thì em vẫn hướng về anh một lòng thủy chung , son sắt.

Tuy được sáng tác vào giai đoạn sau khi nữ sĩ nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu , thế nhưng không vì vậy mà bà mất đi niềm tin về tình yêu đôi lứa mà trong trái tim nóng hổi ấy luôn ẩn chưa niềm tin mãnh liệt vào tình yêu chân thành , nhưng cũng là những băn khoăn , trăn trở cái hữu hạn của đời người với cái bao la của vũ trụ :

Ở ngoài kia đại dương

Trăm nghìn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

“Bài thơ Sóng là một cuộc hành trình khởi đầu từ sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.” – G.S Trần Đăng Suyền . Quả đúng là như vậy , qua ba khổ thơ cuối ta đã thấy được tâm hồn yêu đời, luôn ẩn chứa niềm tin , khát vọng yêu mãnh liệt của nữ sĩ. Hàng trăm , hàng ngàn con sóng ở ngoài đại dương xa xôi, dù gặp muôn vàn cách trở nhưng chúng vẫn luôn hướng về bờ . Và đó cũng là nghệ thuật ẩn dụ mà nữ nhà thơ muốn gửi gắm ở đó niềm tin mãnh liệt vào tình yêu đích thực . Như ông bà ta đã từng ví :

Yêu nhau mấy núi cũng trèo

Mấy sông cũng lội , mấy đèo cũng qua

Trong tình yêu , Xuân Quỳnh cũng từng trải qua những nỗi buồn , sự đổ vỡ , cay đắng nên đâu đó trong tiềm thức của mình , bà vẫn luôn băn khoăn , lo lắng về tình cảm đôi lứa . Những từ “ tuy dài thế” , “ vẫn đi qua”, “ dẫu rộng” diễn tả sự ngậm ngùi, nỗi lo âu của nhà thơ. Tương lai sau này của mỗi người sẽ ra sao , không ai có thể đoán trước được thế nhưng nhà thơ cũng nhắn nhủ : Hãy cứ tin vào tình yêu , tình cảm chân thành sẽ vượt qua mọi thử thách, rào cản của cuộc sống . Đồng cảm với những suy nghĩ ấy, ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng viết :

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Tưởng chừng như tin tưởng vào tình yêu chân thành là lời nhắn nhủ đến tất cả chúng nhưng chưa hết , bà còn thể hiện cái tôi trữ tình : khao khát hòa tình yêu của mình vào biển lớn để sống hết mình với tình yêu và cũng là mong muốn được hóa thân chung vào cái vĩnh hằng. Sóng khao khát được “ tan ra” thành “ trăm con sóng nhỏ” , sóng chỉ thực sự là sóng khi hào vào đại dương bao la . Tình yêu của em cũng vậy , cũng muốn hòa vào tình yêu của nhân loại để bất tử hóa với thời gian. Đây là một khát vọng vô cùng nhân văn , một khao khát mãnh liệt của người phụ nữ với trái tim đôn hậu, chân thành , luôn ước muốn hạnh phúc đời thường bình dị , chân thành.

Sóng là sự tìm tòi sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Xuân Quỳnh. Bài thơ với âm hưởng nhịp nhàng dào dạt, gợi ra những nhịp sóng dồn dập và liên tiếp. Lúc sôi nổi, lúc sâu lắng,thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt tạo nên nhịp điệu của sóng biển dào dạt, sôi nổi, lúc sâu lắng, dịu êm chạy suốt bài thơ,tâm trạng hồn nhiên, chân thành, hình tượng sóng được miêu tả trở đi trở lại mà không lặp, diễn tả được tâm hồn người phụ nữ. Đồng thời cho ta thấy được tình yêu của người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh nồng nhiệt thiết tha, chủ động trong tình yêu, yêu hết mình, quên mình nhưng cũng đòi hỏi sự duy nhất, tuyệt đối luôn hướng về sự gắn bó thủy chung.

“Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường”. Quả đúng là như vậy , Xuân Quỳnh là một tâm hồn sống trong tình yêu , sống bằng tình yêu ,suốt đời trăn trở tìm kiếm một tình yêu lí tưởng. “Sóng” không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguội yên, “Sóng” còn là một nguồn sống, nguồn năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho thế hệ sau qua mỗi tiếng thơ của mình. Thơ Xuân Quỳnh đã đi vào tâm hồn người đọc và làm rung động những trái tim con người cũng bởi lẽ đó

nhận định văn học 9+ cho Sóng

1. “Sóng là một bài thơ về tình yêu. Có hàng trăm dáng vẻ thơ của tình yêu. Thơ tỏ tình, thơ mong nhớ, thơ hoài niệm, thơ đau khổ vì thất tình,… Sóng là bài thơ giãi bày và chiêm nghiệm (Trần Đình Sử)

2. “Sóng là một bài thơ xinh xắn, trong sáng…” (Nguyễn Đăng Mạnh)

3. “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời… Ở đó trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và cách trở…” (Chu Văn Sơn)

4. “Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình yêu. Chị quanh co không giấu diếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt lõi của thơ Xuân Quỳnh” (Võ Văn Trực)

5. “Bài này Quỳnh nó viết bợm thật. Nghĩa là đọc xong, tự nhiên mình cũng có ý nghĩ là phải viết, viết một cái gì cho ra trò một chút, cho nó phải nể.”

(Nhà thơ Vũ Cao, Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội)

6. “Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.”

(GS-TS Trần Đăng Suyền)

7. “Ở mỗi tập thơ của Xuân Quỳnh, những bài viết của tình yêu thường để lại nhiều ấn tượng hơn cả. Với giọng điệu hết sức thơ hết sức tự nhiên, bài “Sóng” thể hiện một tình yêu sâu sắc, bồi hồi, thao thức đến cả trong giấc mơ. Dù có những gian truân cách trở, nhưng tình yêu bao giờ cũng đẹp, cũng đến được tận cùng hạnh phúc, như con sóng nhỏ đến với bờ”

(Nhà thơ Việt Nam hiện đại, GS Phong Lê chủ biên, Viện Văn học, Nxb KHXH,1984)

8. “Sóng là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách của Xuân Quỳnh.Qua hình tượng sóng, trên cơ sở sự tương đồng, hòa hợp giữ sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Bài thơ cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.

Tây Tiến

Quang Dũng là một nhà thơ đa tài trong nhiều lĩnh vực như sáng tác thơ, vẽ tranh, viết văn. Những tác phẩm của ông thể hiện tâm hồn của con người hào hoa, lãng mạn, đầy trữ tình. Tây Tiến là tác phẩm tiêu biểu thể hiện cho phong cách sáng tác thơ ca của ông với hình ảnh người lính hào hoa nhưng không kém phần lãng mạn.

Tây Tiến được sáng tác vào thời kì đấu tranh ác liệt của dân ta năm 1948 và được in trong tập Hoa dọc chiến hào. Bài thơ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên Tây Tiến và ngợi ca người chiến sĩ với tinh thần anh dũng, bi tráng.

Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Tiến với một tiếng gọi từ hiện tại về đến quá khứ rất thân thương:

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi."

Thán từ ơi được ngân dài tha thiết với thanh bằng gợi sự dịu êm. Nhớ chơi vơi chính là nỗi nhớ không thể định hình mà lại bâng khuâng bao trùm cả không gian, thời gian. Hai câu đầu của bài thơ tác giả nhớ lại về những gì thân thuộc trong trí nhớ về Tây Tiến. Một hành trình gian khó, nhọc nhằn, khó khăn hiện ra. Vùng núi Tây Bắc với nhiều địa danh nổi tiếng: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu gợi lên những miền rừng núi hùng vĩ đầy hoang sơ. Nhà thơ ngắt nhịp 3/4 tạo nên sự phân định rạch ròi hai hướng lên xuống trên con đường hành quân Tây Tiến. Những từ ghép, từ láy giàu được sử dụng để đặc tả sự gian nan.

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời."

Khi chinh phục được tưởng chừng như con người đang bồng bềnh đứng giữa biển mây. Độ cao bầu trời chỉ còn trong tầm mũi súng. Độ rộng rãi thoáng đạt của không gian ùa tới. Ý thơ của Quang Dũng không chỉ tả cảnh mà còn tả ý chí tâm hồn của người lính. Người lính Tây Tiến không bị chìm đi trước thiên nhiên khắc nghiệt mà lại như trỗi dậy đầy thử thách.

"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."

Chinh phục được đỉnh núi rồi ta lại phát hiện về độ cao “heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Cồn mây cho thấy mây núi chồng chất dựng lên thành cồn thành dốc, dốc núi cao đến mức con đường lẫn vào mây khiến con đường hành quân của càng cheo leo, phức tạp. Ngửi trời là cách nói vui đùa của người lính qua đó nhà thơ cho thấy tâm hồn trẻ trung không sợ khó khăn, vất vả của người lính.Giữa mạch thơ với cái dữ dội của thiên nhiên là một ánh nhìn bay bổng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi, đây là một phép liên tưởng thú vị. Giữa núi rừng trùng điệp, ngôi nhà ấm áp hiện lên làm xao xuyến lòng người xa quê.

Giữa phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy là sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."

Núi rừng Tây Tiến đầy thử thách khiến chúng ta nghe thấy rõ ràng hơi thở nặng nhọc của người lính trên mỗi chặng hành quân. Họ là những gương mặt dãi dầu sương gió rồi cuối cùng “gục lên súng mà bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” diễn tả tất cả sự vất vả của các anh lính trên chặng đường chiến đấu. Người lính không thể tiếp tục bước đi cùng đồng đội. Bên cạnh đó Quang Dũng còn tả về sự ngang tàng, anh dũng của những người chiến sĩ không sợ quân thù.

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."

Kết thúc hành trình gian khổ là hình ảnh cuộc sống thanh bình, êm đềm.

Làn khói lam và mùi hương nếp xôi quyến rũ gợi về một cuộc sống yên bình đáng mơ ước. Mai Châu bỗng trở nên thân thuộc biết bao nhờ câu thơ và cách diễn đạt nỗi nhớ không thể của Quang Dũng: nhớ ôi Tây Tiến...

Tây Tiến thơ mộng, trữ tình dưới ngòi bút Quang Dũng:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Kìa em xiêm áo tự bao giờ.

Khèn lên man điệu nàng e ấp,

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."

Buổi liên hoan văn nghệ thật vui vẻ với ánh sáng rực rỡ của đêm hội đuốc hoa và bừng lên tỏa sáng trong cái nhìn ngạc nhiên của người chiến sĩ. Man điệu bí ẩn, say đắm, ngọt ngào làm mê hoặc lòng người. Vẻ đẹp của cô gái mềm mại, e ấp bên cạnh tiếng khèn rộn ràng. Người lính Tây Tiến chiêm ngưỡng say đắm vẻ đẹp của đêm văn nghệ với tâm hồn trẻ trung, vui vẻ.

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?

Có nhớ dáng người trên độc mộc,

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"

Nhà thơ đang hướng cảm xúc của mình về miền tây sông nước. Dòng người mềm mại, duyên dáng băng băng trên độc mộc thể hiện sự lãng mạn trong hồn thơ Quang Dũng và vẽ được cái hư ảo của hoài niệm, sự tinh tế của tình cảm.

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm."

Đoàn binh Tây Tiến xuất hiện với tư thế oai phong "dữ oai hùm”. Tuy nhiên sự thật là người lính đang phải hứng chịu những trận sốt rét khủng khiếp trong hoàn cảnh thiếu thốn thuốc men, vật chất. Đoàn quân ấy đang phải đối mặt với bao khó khăn, gian nguy, thiếu thốn.

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."

Giữa khung cảnh khắc nghiệt, người lính vẫn giữ tâm hồn lãng mạn đã mơ về hình ảnh yêu kiều của người con gái Hà Nội. Giấc mơ về Hà Nội yên bình vô cùng bay bổng lãng mạn và cũng là động lực tinh thần cho đoàn quân Tây Tiến.

Khát vọng chiến thắng, sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến được thể hiện qua câu thơ:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

Khát vọng của họ là được ra đi và xả thân. Đó cũng là lý tưởng cao cả nhất trong cuộc hành trình gian khổ của người chiến sĩ. “Áo bào thay chiếu anh về đất” chỉ sự hy sinh cao cả của người lính. Con sông Mã gắn với tiếng gầm thể hiện cái chết oai hùng mang tầm sử thi.

"Tây Tiến người đi không hẹn ước,

Đường lên thăm thẳm một chia phôi.

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."

Bài thơ kết thúc đầy xúc cảm. Đường lên Tây Tiến, đường đến với chiến thắng quả thật rất gian nan, thăm thẳm, xa cách và chẳng có một lời hứa hẹn chắc chắn nào. Nhưng với tinh thần, ý chí chiến đấu của người lính chắc chắn sẽ đập tan quân thù.

Bài thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực khốc liệt nơi chiến trường qua đó cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, ý chí cao cả của người lính Tây Tiến.

Tây Tiến sẽ mãi là bài thơ lưu trữ những ký ức đẹp đẽ của dân tộc, của một thời chiến đấu để đạt được cuộc sống ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay.

6. Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến

Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm ven bờ con sông Đáy, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang Dũng là đội trưởng đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến bắc Thanh Hóa. Những người lính của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, hiểm trở.

Những người lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức, tuy chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 (trước đây lấy tên là "Nhớ Tây Tiến”) để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu về một thời chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say.

Để khắc họa chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử. Bài thơ được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ấy.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Hình ảnh sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc những câu chuyện oai hùng của binh đoàn Tây Tiến. Trên bước đường ra trận, những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ đầu bài thơ Quang Dũng gọi tên "sông Mã". Câu thơ giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại luôn thường trực. Trong lòng câu thơ thứ hai dùng hai chữ "nhớ", lại được ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi, khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái đặc sắc chính là ở ba chữ "nhớ chơi vơi", chữ "chơi vơi” làm cho người đọc có cảm nhận như lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng người, một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng, một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa mà lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man và lại có sức ám ảnh khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe được trong những chữ "nhớ chơi vơi" ấy âm hưởng của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần "ơi" tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ thương giống như một sợi tơ tình bện chặt lòng người. Ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của mình.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Các địa danh Sài Khao, Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng trở nên thân gần kì lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi "Quang Dũng lại điểm thêm vào đó hình ảnh "sương lấp", "hoa về", "đêm hơi". Rõ ràng là ở đây chất hiện thực đã đi liền với chất lãng mạn tạo nên nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.

Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ, bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ niệm còn tươi nguyên như sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh một thời gian khổ:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Hai câu thơ mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất những gian khổ của người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc đã gợi cho người đọc cảm nhận về một sự trúc trắc gập ghềnh đầy hiểm nguy. Nhưng cái hay của câu thơ chính ở hai từ láy "khúc khuỷu, "thăm thẳm", nó gợi cho người đọc những cảm nhận về một không gian được mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa, người đọc như sẻ chia được cùng với người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ "heo hút" được dùng rất đặc sắc, nó khác với hun hút, nếu “hun hút” gợi được độ sâu thì heo hút không giới hạn, từ heo hút không chỉ gợi ra độ sâu mà còn thêm cả cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo, hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó và nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ "súng ngửi trời" được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh "đầu súng trăng treo" của Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế và ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh "súng ngửi trời", câu thơ nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư thế hiên ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện một chút dí dỏm tinh nghịch, một phong cách lính trẻ trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ vắng lạnh, hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ cô đơn mà lại khẳng định tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của một chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan của con người. Không những thế, hình ảnh một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Hình ảnh "oai linh thác gầm thét" và "Mường Hịch cọp trêu người" là những dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến đã phải trải qua khoảng thời gian "chiều chiều", "đêm đêm" trở thành một khoảng thời gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức của chính tác giả. Viết về những gian khổ của người lính, ngòi bút của Quang Dũng cũng ghi lại những hình ảnh hết sức chân thực:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của người lính được thể hiện qua hai chữ "dãi dầu". Tuy nhiên từ "dãi dầu" vẫn giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần của người lính trên đường hành quân, phải chăng vì thế hình ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng của người tráng sĩ, chinh phu thuở nào. Qua những chữ "bỏ quên đời" ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính lại được ngời sáng từ chính những hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó mặc nhưng hơn hết là một tráng trí anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh thì họ vẫn coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn, mê say:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Họ bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng vất vả của cuộc chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một buổi liên hoan bỗng chốc biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua lăng kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật rực rỡ lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ "bừng" được dùng rất hay, nó không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của bó đuốc đêm hội mà là sự bùng lên của niềm vui, niềm say mê kiêu hãnh. Trong sự náo nức của đêm hội ấy, hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm, bao nhiêu con mắt như đổ dồn về phía người em gái để mà kìa em xiêm áo tự bao giờ" — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đi liền ngay sau đó là cảm xúc ngây ngất đắm đuối và say mê. Từ Hán việt "xiêm áo" tạo ra nét trang trọng, ở đây hình ảnh người em gái như được mỹ lệ hóa. Những chữ "tự bao giờ" như không giấu nổi cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc tưởng người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là huyền thoại, đây chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đêm hội ấy là hình ảnh của nhạc, của khèn, nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức mê say, tiếng nhạc của tâm hồn như lan tỏa ra từng câu chữ. Một thời mê say và lãng mạn của người lính Tây Tiến còn được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Hình ảnh của cơm lên khói, hương vị của nếp xôi nồng nàn mà tha thiết như quyện chặt tâm hồn người đi xa. Câu thơ chủ yếu gieo thanh bằng, tạo ra một cảm xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng nhung nhớ, một chút da diết khắc khoải cũng đủ làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về một thời mê say ấy, Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ thứ nhất như được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng hiểm trở của núi rừng Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống như một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã xa vắng trong nỗi niềm của tác giả: tưởng là mơ hồ không xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ ám ảnh và khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế, câu thơ còn có tiết tấu giai điệu rất rõ thể hiện tính nhạc cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là người nghệ sĩ. Cuộc sống kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn đẹp lung linh trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ và mộng này, đã xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục giã mê say chuyển sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút hoài niệm ngậm ngùi:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có thấy dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Hoài niệm của tác giả bắt đầu từ hình ảnh "chiều sương ấy", không gian như thoáng phủ một nỗi buồn mênh mang. Chữ "ấy" có ý nghĩa định vị về mặt không gian như muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, nó giúp cho người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ thương. Những câu thơ gợi nhiều hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là những hình ảnh cụ thể chi tiết mà chi là dáng, là hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ dường như không miêu tả cảnh mà chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay nói đúng hơn cảnh vật được nhìn qua lăng kính nhớ thương, không rõ nét, mờ mờ ảo ảo, hư hư thực thực. Không phải miêu tả lâu mà là "hồn lau”, không phải miêu tả người mà là “dáng người”, người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất của khổ thơ là việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy”, "có nhớ", Đây không chỉ là câu hỏi má còn giống như một lời gợi nhắc, một lời nhắn nhủ tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau ấy, dáng người ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn tác giả, để rồi khi gợi nhắc về nó giống như một điểm nhấn của xúc cảm. Đặc biệt, sự biến đổi trong cách sử dụng các cụm từ "có thấy", ”có nhớ” còn là sự thay đổi về giác quan, không chi là cái nhìn mà còn là tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo, nó xuất hiện hình ảnh "nước lũ" đối lập với hình ảnh “hoa đong đưa": một bên là cái mạnh mẽ dữ dội, một bên là cái nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh "hoa đong đưa" không còn là hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm của tác giả. Từ láy "đong đưa" khác với từ láy "đu đưa", nó không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển động như từ "đu đưa" mà còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt đầy hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến chúng ta như sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính, nhà thơ đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường, tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Nhà thơ Quang Dũng gọi tên binh đoàn của mình bằng tên gọi khá thú vị "đoàn binh không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy lại lấy chính hiện thực gian khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh và tự tôn cho chính mình. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực thiếu thốn khắc nghiệt "tiểu đội xe không kính", qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai tạo ra hai vế đối lập: "quân xanh màu lá" với "dữ oai hùm", một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng "dữ oai hùm" tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây Tiến cũng là những người lắm mộng nhiều mơ, những người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ đã tạo ra nét vẽ chân thực về hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai câu thơ đã nhấn mạnh chữ "mộng" và "mơ”. Từ "trừng“được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đêu dâng cả lên trên ánh mắt. "Mắt trừng" chỉ một hành động mạnh, nhưng không phải là trừng trị, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện những nhung nhớ, ước ao đến khắc khoải. Chữ "mộng" khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn chứa xúc cảm bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu nhớ "dáng kiều thơm” nào đó thật đời thường, bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó khiến cho hình ảnh người lính trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh Hà Nội rời ghế nhà trường tham gia chiến trận – những con người "lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.

Những người lính Tây Tiến sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đì chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Cái độc đáo là nhà thơ viết về sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự sầu thương bị lụy sự ai oán não nùng mà nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống, nó giống như một thước phim quay chậm.

Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ của những kẻ chết xa quê. Nhưng những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với ánh mắt bình thản bởi họ chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm cái "Bi" thì câu thứ hai tô đậm nét "Tráng", "Hùng". Câu thơ thứ hai giống như một cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng. Tác giả mượn hình ảnh "áo bào" để gợi tả sự ra đi của những người lính. Đặc biệt nó còn gắn với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, giảm bớt nỗi buồn thương bị lụy. Nó tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như một sự sẻ chia đồng cảm của tác giả đối với những người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp lại xuất hiện hình ảnh sông Mã – chứng nhân của lịch sử. Sông Mã tấu lên "khúc độc hành" – khúc ca đơn độc buồn thương. Chữ "gầm" – biện pháp nhân hóa, nồi nhớ thương của lòng người như hóa thân vào nỗi nhớ thương của dòng sông hay dòng sông ấy đang chở đi những khúc ca đau đớn của con người. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi đã hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một thời mê say lãng mạn, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ, nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí ngất ngời. Câu thơ nói về biệt li, về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ càng trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới gặp lại. Người đọc cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy cả câu thơ. Hai câu cuối, giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết ân tình. Phải chăng đây là lời hẹn gặp Tây Tiến vào mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ, của chiến thắng. Điều đó chứng tỏ tác giả mong ngày gặp lại Tây Tiến, trở về Tây Tiến chính là ngày chiến thắng. Câu thơ kết vang lên đầy kiêu hãnh như một lời thề, lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, về những con người cụ thể đã hóa thân thành nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến đã trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.

Nhà phê bình Phong Lan nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính vô danh” – bất tử bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng. Vì vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.

Xem thêm: Ôn thi tốt nghiệp: 2 chi tiết "vàng" trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa"

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận