Chuyện đời công chúa Lý Ngọc Kiều: Từ cuộc hôn nhân chính trị đến thiền gia nổi tiếng nhất nhì thời nhà Lý

Công chúa Lý Ngọc Kiều - Ni sư Diệu Nhân là người đức hạnh, thấu hiểu lòng dân và làm lợi lạc trong việc phát triển Phật giáo thời nhà Lý....

Đỗ Thu Nga
09:00 21/10/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Thân thế ít biết của công chúa Lý Ngọc Kiều

Lý Ngọc Kiều (1042 - 1113) là một công chúa nhà Lý; và sau khi xuất gia, bà là người đứng đầu thế hệ thứ 17 của Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Sau khi xuất gia, bà lấy pháp danh là Diệu Nhân. 

Theo Wiki, công chúa Lý Ngọc Kiều là con gái lớn của Phụng Càn vương Lý Nhật Trung - con trai thứ của Lý Thái Tông và là em trai của Lý Thánh Tông.

Thuở còn nhỏ, bà được Lý Thánh Tông nuôi ở trong cung, lớn lên dù không phải con gái của Hoàng đế nhưng vẫn được phong làm công chúa. Bà được Dương Thái hậu chăm lo săn sóc cùng ân cần dạy bảo, lại thêm thiên tư vốn thuần hậu, ngôn hạnh đoan trang nên người người đều khen tài sắc vẹn toàn.

Vào mùa xuân năm 1058, công chúa Lý Ngọc Kiều được gả về châu Chân Đăng - một vùng đất thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay, làm phu nhân quan châu họ Lê.  Vào thời nhà Lý, công chúa được gả cho thủ lĩnh các châu là chính sách nhằm cố kết lòng người với vương triều. Nhiều công chúa đã được gả về các vùng biên cương trong hoàn cảnh như thế.

Trước Lý Ngọc Kiều, sử sách chép rằng đã có 3 vị công chúa khác được gả như thế. Đầu tiên là công chúa Bình Dương được gả cho Châu mục châu Lạng là Thân Thiệu Thái vào năm 1029. Sau đó vào năm 1036 có 2 công chúa được gả đi các châu là Kim Thành ( Đại Việt sử lược, ghi là Khánh Thành) gả cho châu mục châu Phong là Lê Tông Thuận (Đại Việt sử lược ghi là Thuận Tông) và công chúa Trường Ninh gả cho châu mục châu Thượng Oai là Hà Thiệu Lãm. 

chuyen-doi-cua-cong-chua-ly-ngoc-kieu-0
Tranh vẽ công chúa Lý Ngọc Kiều

Các vua nhà Lý duy trì chính sách này nhiều năm. Sau Ngọc Kiều, Lý Thánh Tông lại tiếp tục gả công chúa Thuận Thành cho Thân Đào Nguyên - con trai công chúa Bình Dương và Thân Thiệu Thái năm 1066. Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Khánh cho châu mục châu Vị Long Hà Di Khánh mùa xuân năm 1082, gả công chúa Diên Bình cho Thủ lĩnh Phú Lương là Dương Tự Minh năm 1127.

Các triều đại sau đôi khi cũng áp dụng kinh nghiệm của nhà Lý. Đơn cử như nhà Trần gả Huyền Trân công chúa cho vua Chế Mn vì mục đích giữ gìn mối quan hệ giao hảo với quốc gia phía Nam. Triều nhà Hồ, Lê Trịnh... đều có những cuộc hôn nhân chính trị như thế....

Song theo sử sách, trường hợp của công chúa Lý Ngọc Kiều có đôi chút khác biệt. Trong Đại Việt sử ký toàn thư Tập 1 (tr.300) có ghi đôi điều khi công chúa qua đời, là một tài liệu rất quý để suy đoán về công chúa:

"Mùa hạ, tháng Sáu (năm 1113), phu nhân của châu mục Chân Đăng là công chúa họ Lý mất. Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng Càn vương, được Thánh Tông nuôi trong cung, lớn lên phong làm công chúa, gả cho châu mục Chân Đăng họ Lê. Chồng chết, phu nhân tự thề ở goá, đi tu làm sư nữ, đến đây mất, thọ 72 tuổi. Thần Tông tôn làm ni sư". (Như vậy tính ra Ngọc Kiều sinh năm 1042)".

Phụng Càn vương là em liền kề thái tử Nhật Tôn, tên là Nhật Trung, một hoàng tử có tài, có đức. Trong các hoàng tử của Lý Thái Tông chỉ có thái tử Nhật Tôn và ông được phong tước vương, các hoàng tử khác chỉ được phong tước hầu. Phụng Càn Vương cũng thường được giao các nhiệm vụ trọng yếu trong triều. Hai lần ông được vua cha giao cho lưu thủ kinh sư.

Lý Thái Tông được sử sách khen là vị hoàng đế nhân ái, có lòng yêu thương con cháu. Nhưng với Ngọc Kiều, ông có sự chăm chút riêng có thể vì tình thân thiết anh em nào đó. Nhưng dù yêu thương, Ngọc Kiều vẫn phải được gả chồng. Chỉ có điều ngày nay ta không rõ Lê công là nhân vật thế nào? Cuộc hôn nhân ấy có đem lại hạnh phúc cho công chúa hai không? Và nguyên nhân nào khiến công chúa sau khi chồng chết lại trở về Thăng Long nhưng không đi bước nữa mà quyết định nương nhờ cửa Phật?

Vì sao công chúa Lý Ngọc Kiều nương nhờ cửa Phật?

Sách Thiền uyển tập anh có nhắc đến chuyện này như sau: Công chúa Lý Ngọc Kiều được gả về Chân Đăng khi nàng mới đến tuổi "cập kê", nhiều nhất là 16 tuổi. Nhưng không rõ cuộc hôn nhân này được bao năm tháng. Song Thiền sư Chân Không mất năm 1100 thì Ngọc Kiều đã đến viếng với tư cách là đệ tử. Chân Không mất năm ấy mới 55 tuổi đời và 36 tuổi hạ.

Tính ra sư sinh năm 1046, kém Ngọc Kiều khoảng 4, 5 tuổi, xuất gia năm 18 tuổi (1064). Và để có thể trở thành sư phụ của Ngọc Kiều, một người đã từng trải, hơn thế chắc chắn có ít nhiều học vấn, Chân Không hẳn cũng cần chừng trên dưới 10 tuổi hạ.

chuyen-doi-cua-cong-chua-ly-ngoc-kieu
Công chúa Lý Ngọc Kiều - thiền gia Diệu Nhân góp mặtt rogn cuốn sách "Các vị nữ danh nhân Việt Nam"

Từ đó có thể phỏng đoán rằng, Ngọc Kiều trở thành học trò của Chân Không khoảng sau năm 1070, nghĩa là sau khi công chúa lấy chồng chừng 15 năm và ở vào độ tuổi trên dưới 30. Dẫu sao khi bắt đầu cuộc đời tu hành, công chúa cũng còn rất trẻ. 

Thiền uyển tập anh cũng hé lộ rằng, trước khi xuất gia, công chúa Lý Ngọc Kiều đã trăn trở rất nhiều. Công chúa từng than rằng: "Ta xem thế gian, hết thảy các pháp cũng như mộng huyễn, huống gì bọn sang quý tạm bợ lại có thể nương dựa được sao!".

Có thể nàng cũng thật lòng thương người chồng bạc mệnh. Bởi vì có một điều chắc chắn rằng, Lê công cũng như các vị châu mục khác làm rể vương triều không thể là những kẻ hèn kém, thiếu bản lĩnh. Ở một khía cạnh khác, họ cũng tương xứng với các công chúa, song hôn nhân, dù bất cứ ở thời đại nào, cũng không thể hoàn hảo khi nó chỉ là đối tượng của sự sắp đặt, của các quy chuẩn và nhất là thuần tuý mang tính mục đích.

Vậy nên cuộc hôn nhân của Ngọc Kiều và Lê công dẫu sao vẫn là một bước ngoặt lớn trong đời nàng khiến người đời sau ngẫm nghĩ cứ thấy ngậm ngùi. Bởi lẽ, công chúa từ nhỏ đã được nuôi dưỡng trong hoàng gia, sống vương gia,r được yêu chiều, có thể rất hồn nhiên vui vẻ, và trẻ thơ. Trở thành "phu nhân" của một thủ lĩnh ở nơi núi rừng xa lạ, công chúa đã phải nếm trải mọi nỗi sinh ly rồi tử biệt, đủ để thấu hiểu những khổ đau mà chúng sinh phải gánh chịu trong cuộc đời.

Sự trải nghiệm ấy đủ sức mạnh để công chúa có một thái độ dứt khoát: "Đem cho hết các đồ trang sức, xuất gia, đến thụ giới với thiền sư Chân Không tại hương Phù Đổng, học hỏi tâm yếu", được thiền sư đặt đạo hiệu là Diệu Nhân và rồi "đạt được tam ma địa", trở thành " một bậc tôn túc trong hàng ni chúng".

Ni sư trí huệ của thời nhà Lý

Sau khi viên châu mục qua đời, công chúa Lý Ngọc Kiều trở về kinh kỳ. Mọi người đã khuyên tái giá nhưng này quyết thủ tiết với người chồng đã khuất. Không ai rõ đời nàng trước khi xuất gia có bao nhiêu vui thú, bao nhiêu buồn tủi. Hậu thế biết đến nàng, đa số đều là cuộc sống của nàng sau khi xuất gia mà thôi. 

Công chúa Lý Ngọc Kiều sau khi giác ngộ thiên đạo đã đem vàng bạc đi quyên góp rồi thụ giới làm ni cô. Thuận theo thỉnh nguyện của nàng, nhà sư Chân Không đã làm lễ xuống tóc, lấy pháp danh cho nàng là Diệu Nhân và cho phép tu học ở ni viện Hương Hải (làng Phù Đổng). 

Pháp danh của nàng dường như bao hàm trong đó là quy luật vận hành của đại đạo: Nhân quả, tự cổ chí kim vốn đều là điều kì diệu, có nhân ắt có quả, thiên đạo vốn luôn công bằng như thế. 

Sau khi thọ Bồ tát giới, ni sư Diệu Nhân luôn giữ gìn giới luật và hành thiện, được chúng tăng ni Phật tử thời bấy giờ xem trọng. Theo sử liệu, ni sư là người phụ nữ đầu tiên được truyền thụ Tâm nhãn, đứng đầu thế hệ thứ 17 của Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi thời nhà Lý.

Sinh thời, ni sư Diệu Nhân để lại cho hậu thế rất nhiều tác phẩm. Nhưng đến nay đã bị thất lạc rất nhiều, chỉ còn lại một bài kệ và nhiều câu chuyện truyền miệng mà thôi. Bài kệ còn được bảo lưu có dung lượng 7 câu 28 chữ. Tuy dung lượng ngắn ngủi nhưng lại chứa đựng tư tưởng nhân sinh và Phật học vô cùng sâu sắc.

Khi có người hỏi về một câu trong kinh Duy Ma Cật rằng: "Tất cả chúng sinh bệnh, nên ta cũng bệnh, vậy sao gọi là khi nào cũng tránh xa thanh sắc?” thì ni sư đáp rằng: “Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh để cầu ta, thì đó là tu tà đạo, không thấy được Như Lai”.

chuyen-doi-cua-cong-chua-ly-ngoc-kieu-4
Thượng toạ Thích Thanh Quyết nói về những cống hiến của ni sư Diệu Nhân

Ni sư Diệu Nhân đáp rằng, người tu đạo nên ngồi tĩnh tâm, dùng cảm ngộ của bản thân để tìm ra chân lý của đại đạo, bởi vì đạo vô hình, vô thanh, vô tức, không thể diễn tả được. Trong xã hội mà tăng nhân được xem trọng, thì quan niệm về thiền và đạo pháp của sư Diệu Nhân lại như tiếng chuông cảnh báo chúng tăng rời xa những phù phiếm chốn hồng trần. Người tu hành cốt là để tìm về đạo, thông qua gian khổ để giác ngộ. Trong chốn phồn hoa thịnh thế này, “thanh” và “sắc” tồn tại như một thứ ác ma dụ dỗ. Phải giữ cho tâm hồn trong sạch, ấy là cách để đến gần chân thân của đạo vậy.

Trang Tử cũng từng viết trong Nam Hoa Kinh rằng: "Tôi nói với ông về đạo, thì tôi thực chất cũng chưa hề ngộ được đại đạo vậy. Tôi chẳng qua cũng chỉ là kẻ thiển cận mà thôi. Đạo vốn không lời, hình, thanh, sắc. Không ai hiểu về nó nhưng ai ai cũng nhờ nó mà sinh!”

Ni sư Diệu Nhân tuy rằng khác thời, khác quốc nhưng tư tưởng về đại đạo thì giống với Trang Tử lắm. Mãi đến thời Trần sau này, vua Trần Nhân Tông mới bàn kỹ thêm về những lý luận mà sư Diệu Nhân đã thuyết giảng trước đó. Ông cũng giảng về bốn giai đoạn của một đời người, chỉ dẫn mọi người phương pháp vượt qua từng giai đoạn…

Ni sư Diệu Nhân là người mạnh mẽ, quyết liệt, yêu cầu người học đạo phải đạt đến sự giác ngộ từ trong lý trí; thì Trần Thái Tông chiếu cố nhiều hơn đến sự “mê hoặc” của chúng nhân. Ông đặt ra phương pháp tu trì giúp họ làm phương tiện để sang bờ giác, cho đến thời điểm mà ánh sáng trí tuệ bừng nở khiến họ hiểu “Phật là không mà Tổ cũng là không”. 

Ngày viên tịch, sư cho gọi tăng chúng đến để đọc thị tịch, sau đó tắm rửa gội đầu sạch sẽ, ngồi thế kiết già mà hóa. Hôm đó là ngày mùng 1 tháng 6 năm Hội Tường Ðại Khánh năm thứ 4 (1113), đời vua Lý Nhân Tông.

Dưới đây là bài kệ:

Sinh, lão, bệnh, tử.

Tự cổ thường nhiên.

Dục cầu xuất ly.

Giải phọc thiêm triền.

Mê chi cầu Phật.

Hoặc chi cầu thiền.

Thiền, Phật bất câu.

Uổng khẩu vô ngôn.

Dịch:

Sinh, lão, bệnh, tử.

Lẽ thường tự nhiên.

Muốn cầu thoát ly.

Càng thêm trói buộc.

Mê, mới cầu Phật.

Hoặc, mới cầu Thiền.

Chẳng cầu Thiền, Phật.

Mím miệng ngồi yên.

Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch, Thiền Uyển Tập Anh, trang 235. Trong sách Thiền Sư Việt Nam, Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch bài kệ thị tịch, trang 163 như sau:

Sanh già bệnh chết.

Xưa nay lẽ thường.

Muốn cầu thoát ra.

Mở trói thêm ràng.

Mê đó tìm Phật.

Lầm đó cầu thiền.

Phật, thiền chẳng cầu.

Uổng miệng không lời.

Ni sư Diệu Nhân chấp nhận quy luật tự nhiên khách quan đối với quá trình sinh học một đời người. Theo bà, người ta sinh ra, lớn lên, già rồi ốm chết, đó là quy luật, từ xưa vẫn thế. Bản thân bà đã đi hết 4 chặng của một đời người và khó có thể nghĩ rằng đó là một hành trình dễ dàng. Một thân thế cành vàng lá ngọc như công chúa Lý Ngọc Kiều nhưng cuộc sống đâu đâu thập phần như ý. 

Sau này khi nói về những giá trị cống hiến của ni sư Diệu Nhân, Ni trưởng Thích Đàm Nghiêm- Ủy viên Thường trực HĐTS GHPGVN cho biết: "Ni sư Diệu Nhân là người đức hạnh, thấu hiểu lòng dân và làm lợi lạc trong việc phát triển Phật giáo thời nhà Lý. Ni sư là người có tư tưởng sâu sắc về giáo lý đạo Phật, được truyền trao Tâm ấn, nối dõi dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Đây là dịp để Phân ban Ni giới Trung ương và hàng Ni giới, nữ Phật tử Việt Nam ngày nay học tập, noi gương, kế thừa tư tưởng của Ni sư Diệu Nhân và Chư vị tiền bối Ni trong sự nghiệp tu tập, hoằng dương Phật pháp - lợi lạc quần sinh".

Thượng toạ Thích Thanh Quyết- Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN, Trưởng Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, Viện trưởng HVPGVN tại Hà Nội khẳng định: "Việc một vị sư được nối dõi dòng thiền đã là vô cùng quý, và ở Việt Nam chỉ duy nhất Ni sư Diệu Nhân là nữ giới được trao truyền Tâm ấn, nối dõi dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Đây là một hiện tượng đặc biệt của Phật giáo Việt Nam, đặc biệt những giá trị phi vật thể trong đó có bài Kệ Thị Tịch mà Ni sư Diệu Nhân để lại mang ý nghĩa rất lớn về tư tưởng Phật học, về triết lý nhân sinh".

Ni sư Diệu Nhân và Nguyên Phi Ỷ Lan là hai vị Ni - Nữ Phật tử nổi tiếng thời Lý, góp phần tích cực cho Phật giáo thời Lý phát triển rực rỡ và làm nền tảng cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam.

Xem thêm: Công chúa Phất Kim - Liệt nữ trung quân ái quốc bị chồng xẻo má vì can ngăn tạo phản

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận