Chuyện phong thủy "đất 2 vua": Thất bại ê chề của Cao Bền khi cố trấn yểm vượng khí đế vương ở Đường Lâm

Nghe tin đất Đường Lâm vượng khí mạnh dễ sinh quân vương, Cao Bền vội vã từ bên Tàu sang dò xét, dùng pháp thuật trấn yểm nhưng thất bại. Sau cùng đất Đường Lâm vẫn sinh ra 2 vị anh tài. Một người là Bố Cái Đại Vương, người còn lại là "vua của các vua".

Đỗ Thu Nga
09:00 27/12/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Làng cổ có thế đất hình rồng, có huyệt đế vương

Đường Lâm là một xã thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Đường Lâm có tên nôm là Kẻ Mía. Tục danh này được bắt đầu từ một cái tên chữ: Cam Giá (Mía ngọt). Cam Giá xưa được chia thành hai tổng: Cam Giá Thượng và Cam Giá Hạ. Cam Giá Thượng là các xã thuộc miền Cam Thượng, Thanh Lũng, Bình Lũng...(nay thuộc về huyện Ba Vì). Còn Cam Giá Hạ là xã Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây). 

Đường Lâm nằm bên hữu ngạn sông Hồng (bờ phía Nam), cạnh Quốc lộ 32, tại ngã ba giao cắt Quốc lộ 21A. Đường Lâm cách Hà Nội khoảng 50km về phía Tây. 

Đường Lâm là làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được Nhà nước trao bằng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia ngày 19/5/2006. Đường Lâm hiện có 956 ngôi nhà truyền thống trong đó các làng Đông Sàng, Mông Phụ và Cam Thịnh lần lượt có 441, 350 và 165 nhà. Cò nhiều ngôi nhà được xây dựng từ rất lâu (năm 1649, 1703, 1850,...). Đặc trưng của nhà cổ truyền thống ở đây là tất cả đều được xây từ những khối xây bằng đá ong. Trong số 8 di tích lịch sử - văn hóa ở Đường Lâm (có đình Mông Phụ), chùa Mía (tức Sùng Nghiêm tự) được Bộ Văn hóa Thông tin xếp vào loại đặc biệt. Chùa có 287 pho tượng gồm 6 tượng đồng, 107 tượng gỗ và 174 tượng đất (làm từ đất sét, thân và rễ cây si).

Chuyen-chua-ke-ve-phong-thuy-dat-hai-vua-Duong-Lam-6
Cổng vào làng cổ Đường Lâm

Nhắc đến Đường Lâm thì không thể không kể đến câu chuyện về phong thủy. Đây là vùng đất phát vương của 2 vị anh hùng dân tộc mà ngày nay hậu thế vẫn gọi là "đất 2 vua".

Theo nhận xét của cố giáo sư Trần Quốc Vượng: Đường Lâm là một địa danh có vị thế đắc địa theo thế "Tọa sơn vọng thủy", tức là lưng tựa núi Tản (núi Ba Vì) - Núi Tổ của Việt Nam, mặt ngoảnh ra sông Hồng - sông Cái, sông Mẹ. Đây cũng là một "tứ giác nước" được bao bọc bởi sông Đà, sông Tích và 85 huyệt bàng. Riêng đất Đường Lâm có huyệt đế vương.

Tại xã Đường Lâm hiện có 9 làng: Mông Phụ, Cam Lâm, Cam Thịnh, Đoài Giáp, Đông Sàng, Hà Tân, Hưng Thịnh, Phụ Khang và Văn Miếu. Trong đó, trọng tâm của làng cổ Đường Lâm được định vị là làng Mông Phụ. 

Nhìn một cách tổng thể, làng Mông Phụ trên thế đất hình con rồng: Đầu rồng chính là nơi tọa lạc của đình Mông Phụ, hai mắt là hai giếng cạnh đình, râu rồng tỏa ra các ngõ xóm, đuôi vắt về xóm Sải. Đình Mông Phụ được xây dựng vào năm 1684 (niên hiệu Vĩnh Tộ đời vua Lê Hy Tông). Ngôi đình này mang đậm kiến trúc Việt Mường (có sàn gỗ) với những nét chạm khắc tinh tế.

Chuyen-chua-ke-ve-phong-thuy-dat-hai-vua-Duong-Lam-5

Ở làng Mông Phụ, mỗi xóm đều có 1 giếng mang tên của xóm. Giếng đào ở vùng đất đá ong nên mạch nước trong, mát. Giếng xóm Hè, xóm Giang xưa nổi tiếng nước ngon gắn với câu tục ngữ: Nước giếng Hè, chè Cam Lâm" hay "Nước giếng Giang, khoai lang đồng Bường".

Theo báo Pháp luật Việt Nam, tương truyền, 2 bên đình Mông Phụ là hai mắt rồng chột vì một giếng nước trong vắt còn giếng kia đục ngầu. Con rồng chột này lại tạo ra vị thế đắc địa cho đình Mông Phụ.

Nằm ở giữa ngã ba trung tâm của làng nhưng người đi ngược về xuôi không ai quay lưng vào đình cả. Sân đình thấp so với mặt bằng xung quanh. Khi trời mưa nước chảy vào sân theo cống tạo thành hình tượng hai râu rồng. Đây chính là dụng ý nghệ thuật đầy lãng mạn của các kiến trúc sư cổ.

Mắt rồng thứ nhất ở giếng đình làng Mông Phụ. Ở hướng Tây đình Mông Phụ có một giếng đá ong khác, miệng giếng nhỏ hơn nhưng sâu nằm khuất trong một ngõ nhỏ. Giếng này được đào ở xóm Miễu nên gọi là giếng Miễu.

Chuyen-chua-ke-ve-phong-thuy-dat-hai-vua-Duong-Lam-4
Giếng ở đình làng Mông Phụ

Giếng này cũng được ví như con mắt rồng còn lại - đối xứng với mắt rồng giếng đình Mông Phụ. Nước giếng Đình trong vắt, nước giếng Miễu thì đục, trở thành 1 điểm khuyết, là mắt rồng mờ. Nước giếng Miễu được sử dụng đối lập với nước giếng Đình, tức là chỉ để tắm giặt chứ không ăn.

Tản Viên Sơn thánh được thờ làm thành hoàng các làng bởi công lao bảo vệ vùng đất này chống lại cuộc chiến của Thủy Tinh và là linh thần mạnh, khiến Cao Biền không thể trấn yểm núi Ba Vì và các vùng đất phụ cận. 

Xưa kia có truyền thuyết cho rằng, Cao Bền nghe tin Đường Lâm là đất có vượng khí mạnh nên đã sang xem xét. Sao đó, Cao Bền dùng pháp thuật đào 100 giếng xung quanh chân núi Ba Vì, trong đó có Đường Lâm để triệt long mạch nước ta. 

Nhưng Cao Bền cứ đà xong giếng nào thì giếng đó sập nên đành phải bỏ cuộc. Cao Biền bị giết năm 887. Đường Lâm không thể trấn yểm, vài chục năm sau đã sinh ra Ngô Quyền, một trong 14 vị anh hùng dân tộc.  

"Đất 2 vua" sinh 2 vị anh hùng dân tộc

Đường Lâm xưa nay nức tiếng là "đất 2 vua", sinh 2 vị anh hùng dân tộc là: Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (761 - 802), người có sức khỏe phi thường, vật được hổ dữ, có công đánh đuổi quân Đường; và Ngô Quyền (898 - 944), người chỉ huy trận chiến thắng lẫy lừng trên sông Bạch Đằng, đánh tan quân xâm lược Nam Hán, giành độc lập cho đất nước sau nghìn năm Bắc thuộc. 

"Vua Lớn" Phùng Hưng

Văn bia ở đình Quảng Bá (Tây Hồ, Hà Nội) ghi: Phùng Hưng là người Cam Lâm, sinh khoảng năm 761, mất năm 801, thọ 41 tuổi. Phùng Hưng có 2 người em sinh ba là Phùng Hải và Phùng Dĩnh. Năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ qua đời. Trong 3 anh em có Phùng Hưng khỏe mạnh phi thường, khí phách hơn người.

Sử sách và truyền thuyết chép rằng, Phùng Hưng có tài đánh trâu, quật hổ nổi danh đất Đường Lâm. Có lần ông thấy hai con trâu mộng đang húc nhau liền dùng tay kéo sừng hai con trâu ra để ngăn chúng lại.

Ở trên quả đồi thuộc làng Cam Lâm có những cái tên: Đội Cấm, Nghẽn Sơn, Vũng Hùm... in đậm dấu tích thời trai trẻ của 3 anh em Phùng Hưng. Cho tới nay dân gian vẫn còn lưu truyền câu chuyện ông dùng mưu kế giết hổ dữ mang lại bình yên cho làng xóm.

Phùng Hưng là người anh hùng đầu tiên đã đánh chiếm lại thành Tống Bình (Hà Nội), trụ sở của chính quyền đô hộ lúc đó và xây dựng nền tự chủ trong khoảng gần chục năm. Bia ở đình Quảng Bá còn ghi: Năm Tân Mùi 791, mùa hạ, tháng 4, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo tiến công vây thành.  Quân của Cao Chính Bình (khoảng hơn 4 vạn) đem ra chống cự. 

Chuyen-chua-ke-ve-phong-thuy-dat-hai-vua-Duong-Lam-9
Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng giết hổ

Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt trong khoảng 7 ngày, quân địch chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. 

Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Nhân dân thương xót tôn ông làm Bố Cái Đại Vương (Vua Lớn). Sau khi ông mất, con trai là Phùng An nối nghiệp được 2 năm thì chính quyền lại rơi vào tay giặc.

Đến nay sử liệu và dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện về sự linh thiêng của Phùng hưng. Việt điện u linh viết: "Sau khi mất, Bố Cái Đại Vương rất hiển linh. Dân các làng thường nghe có tiếng ngựa xe đi lại ầm ầm trên nóc nhà hoặc trên ngọn cây cao, ngẩng trông thì thấy ẩn hiện trong những đám mây là cờ ngũ sắc và kiệu vàng rực rỡ, lại có cả tiếng nhạc văng vẳng nữa. 

Bấy giờ, nếu có việc lành hay dữ sắp xảy ra thì thế nào đêm đến cũng sẽ có dị nhân báo cho các vị hào trưởng biết để thông tin cho cả làng hay, cho nên, ai cũng lấy làm lạ, bèn cùng nhau lập đền thờ Vương ở phía Tây của phủ đô hộ. 

Đền thờ Vương rất linh thiêng, mọi việc cầu mưa, cầu tạnh đều được linh ứng. Ai gặp việc khó khăn như bị kẻ xấu lấy trộm hoặc giả là muốn cầu tài, đến lễ thần đều được như ý. Bởi vậy, người đến lễ rất đông, khói hương chẳng lúc nào dứt”.

Ngô Quyền - vua của các vua

Đất Đường Lâm còn sinh ra một vị vua khác đó là Ngô Quyền. Sử chép, ông sinh năm Mậu Ngọ (898) ở Đường Lâm. Đại Việt sử ký toàn thư mô tả: Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có 3 nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ 1 phương, nhân đó mới đặt tên là Quyền. Khi lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc”. 

Ngô Quyền tinh thông võ nghệ, có chí lớn. Ông từng tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La. Rồi ông cũng từng theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giải phóng thành Đại La năm 931.

Chuyen-chua-ke-ve-phong-thuy-dat-hai-vua-Duong-Lam-0
Tượng đài Ngô Quyền

Khi Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, tự xưng là Tiết độ sứ, đóng ở Đại La. Ông phong cho Đinh Công Trứ (cha Đinh Bộ Lĩnh) làm thứ sử Hoan Châu, gả con gái là Dương Thị Như Ngọc cho Ngô Quyền, giao trấn thủ Ái châu. Chính quyền họ Dương tồn tại 7 năm (931 - 937) thì Dương Đình Nghệ bị kẻ phản bội là Kiều Công Tiễn (một viên tướng dưới quyền) sát hại để đoạt chức. 

Ngô Quyền với danh nghĩa bộ tướng, con rể Dương Đình Nghệ, đồng thời cũng là người đứng đầu liên minh Ngô - Dương đã dẫn quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Tiễn bị cô lập, sợ hãi chạy sang cầu cứu Nam Hán. Vua Nam Hán nhân cơ hội này sai con là Lưu Hoằng Thao đem quân sang xâm lược nước ta.

Năm 938, Ngô Quyền đem quân vượt đèo Ba Dội, tiến vào thành Đại La giết phản đồ Kiều Công Tiễn. Đồng thời tổ chức kháng chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. 

Để chống lại giặc mạnh, Ngô Quyền đưa ra những kế sách độc đáo. Ông bố trí trận địa cọc nhọn hoắt trong lòng sông. Khi nước triều lên dụ thuyền giặc vào trận địa.

Chuyen-chua-ke-ve-phong-thuy-dat-hai-vua-Duong-Lam
Trận địa cọc Bạch Đằng năm 938 vang danh sử sách

Tháng 12/938, các chiến thuyền của giặc vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng. Khi thấy quân của Ngô Quyền rút lui chúng tưởng đang ở thế thượng phong nên thừa thắng xông lên và gặp trận địa cọc cùng quân mai phục. Chỉ 1 thời gian ngắn, thuyền của giặc đắm gần hết, quân giặc chết  quả nửa, máu chảy loang đỏ khúc sông. Hoằng Thao cũng tử trận. Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh chóng khiến vua Nam Hán tái mặt, đang đóng quân ở sát biên mà không kịp tiếp ứng cứu con.

Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938 đã đập tan âm mưu xâm lược nước ta của Nam Hán, tạo cơ sở để Ngô Quyền phát triển chính quyền tự chủ của nhà họ Khúc, họ Dương thành chính quyền độc lập, kết thúc hơn nghìn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập, tử chủ cho dân tộc Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi xưng là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). 

Với những chiến công vang dội, Ngô Quyền trở thành vị vua có "công tái tạo, vua của các vua" theo nhận định từ Đại Việt sử ký toàn thư. Ông cũng là 1 trong 14 vị anh hùng dân tộc lẫy lừng.

Xem thêm: Giai thoại ly kỳ về ngôi huyệt mộ phát vương của nhà Trần ở Thái Đường

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận