Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là chiến thắng của cuộc chiến tranh nhân dân trên phạm vi cả nước. Đó là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó không thể không nhắc đến vai trò của đội ngũ hậu cần.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, vấn đề cung cấp, tiếp tế quân nhu vô cùng khó khăn. Bởi điều kiện tuyền tuyến cách xa hậu phương từ 400 - 500km, thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, đường xá hư hỏng... Thế nhưng, ta vẫn phải đảm bảo cung cấp một lượng vũ khí, đạn được, lương thực, thực phẩm, đồ dùng, thuốc men một cách nhanh chóng, liên tục và gấp rút. Đặc biệt, việc tiếp tế cần phải được giữ bí mật cao nhất để tránh địch phát hiện, đánh phá.
Với tinh thần "quyết chiến, quyết thắng", hàng vạn dân công đã được huy động để vận chuyển quân nhu bằng những phương tiện thô sơ. Một trong những phương tiện làm nên lịch sử trong những chuyến vận chuyển lương thực, đạn được này là xe đạp thồ.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội và dân công đã sử dụng 21.000 chiếc xe đạp thồ, được gọi là "binh chủng xe đạp thồ", hoạt động suốt gần 1.500km. Lực lượng này được biên chế thành từng đoàn theo địa phương, mỗi đoàn có nhiều trung đội, mỗi trung đội có từ 30 đến 40 xem, chia thành các nhóm khoảng 5 xe để hỗ trợ nhau khi qua đèo, vượt dốc. Mỗi đoàn xe đạp thồ có 1 xe chuyên chở phụ tùng thay thế, sửa chữa dọc đường.
Một chiếc xe đạp thồ trung bình có thể chở từ 50 - 100kg hàng hóa, tương đương sức vác của 5 người, tốc độ nhanh hơn, có thể vận chuyển được vật tư cồng kềnh, chất lỏng (xăng, dầu) đi trên nhiều loại địa hình mà ô tô không đi được. Ưu điểm lớn nhất của phương tiện này là không cần nhiên liệu, dễ sửa chữa, dễ ngụy trang, có thể đi thành hàng dài trong mọi điều kiện thời tiết.
Theo Thiếu tướng Lê Mã Lương - nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, xe đạp thồ của Việt Nam là phương tiện chiến tranh huyền thoại. Nó không chỉ xuất hiện trong kháng chiến chống Pháp, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ mà sau này chiếc xe đó còn được sử dụng hiệu quả trong kháng chiến chống Mỹ.
Xe đạp thồ không chỉ phục vụ vận tải lương thực, thực phẩm, đạn dược mà còn sử dụng để cáng thương binh (xe trước - xe sau, giữa mắc võng). Ở chỗ đường rộng, người sử dụng xe đạp còn cặp đôi xe lại với hai võng chở hai thương binh.
Vậy ai là "cha đẻ" của chiếc xe đạp thồ huyền thoại này? Theo báo Vietnamnet, người có sáng kiến cải tiến xe đạp trở thành xe đạp thồ huyền thoại giúp chở được nhiều hàng hóa vật tư hơn là ông Ma Văn Thắng quê ở Thanh Lâu (huyện Thanh Ba, Phú Thọ). Hiện ông Thắng đã qua đời. Khi đó, ông Thắng là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã Thanh Minh (huyện Thanh Ba, thị xã Phú Thọ). Hiện chiếc xe đạp thồ của ông Thắng sử dụng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đang được đặt ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, xe đạp được dân công sử dụng để chở lương thực, tuy nhiên lúc đầu chỉ chở được từ 80 - 100kg, đi lại vất vả. Trong quá trình vận chuyển, ông Thắng đã có sáng kiến cải tiến chiếc xe để nâng mức chở lên 200kg, thậm chí là hơn 300kg. Như chiếc xe của ông Thắng kỷ lục chở được 325kg.
Ông Lê Mã Lương từng chia sẻ đã từng gặp Ma Văn Thắng lần ở Hà Nội và cũng từng lên nhà ông Thắng 1 lần: "Tôi nói với ông, qua tài liệu cũng như qua phổ biến chúng tôi được biết bác là người có sáng kiến cải tiến chiếc xe đạp để thồ hàng phục vụ chiến dịch, mà xe không phải bác mang từ nhà đi. Ông Thắng nói ngay, mình nghèo rớt mùng tơi lấy đâu ra xe đạp.
Thời đó những người có xe đạp phải là những gia đình khá giả, còn đối với nông dân, đặc biệt là bần cố nông thì không bao giờ có thể mơ có được tài sản này. Nói như thế để thấy xe đạp thời đó rất giá trị. Còn ông Thắng lúc đó chỉ là bần nông.
Ông Thắng cho biết, chiếc xe đạp thồ ông sử dụng là đi mượn của cơ quan đóng trên đường ra mặt trận và sau trở thành tài sản gắn với ông vì cơ quan đó đã di chuyển, ông Thắng không biết trả lại cho ai".
Để thồ được hàng nặng như vậy xe phải gia cố như buộc đoạn tre nhỏ (hoặc hỗ) dài khoảng 1 mét, gọi là "tay ngai" vào ghi-đông để điều khiển; một thanh gỗ (hoặc thanh tre cứng) cao hơn yên xe khoảng 50cm buộc vào trục yên, vừa giúp giữ thăng bằng, vừa đẩy xe đi; gá hêm sắt, buộc thêm gỗ để tăng độ cứng của khung xe; lấy vải, quần áo cũ, săm cũ lót vào bên trong tăng độ bền của săm, lốp xe; bổ sung thêm 2 chiếc ghế, một chiếc để dựa xe trong lúc nghỉ chân, một chiếc để chèn xe khi xuống dốc.
Sinh thời, ông Thắng cũng từng chia sẻ, không biết mình là người đầu tiên nghĩ ra sáng kiến này. Sau này báo chí tuyên truyền rồi Bảo tàng Lịch sử Quân sự đưa chiếc xe về trưng bày thì ông mới biết.
Nói về chiếc xe đạp thồ của quân ta, trong cuốn “Trận Điện Biên Phủ”, ký giả G. Roa đã viết: “Đã có hàng trăm tấn bom được ném xuống các tuyến giao thông và những con đường tiếp vận của Quân đội nhân dân Việt Nam nhưng chẳng bao giờ cắt đứt nổi những con đường ấy… Tướng Nava bị thua chính là những chiếc xe đạp thồ với những kiện hàng từ 200 đến 320kg, được điều khiển bởi những con người ăn không thật no và ngủ thì nằm ngay trên những mảnh nilông trải trên đất.”
Đội quân xe đạp thồ xuất hiện ở Điện Biên là một sự kỳ diệu chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, không chỉ ở Việt Nam mà cả lịch sử chiến tranh thế giới. Là minh chứng sinh động cho tinh thần và ý chí quyết tâm không có gì lay chuyển được của một dân tộc trên con đường tìm lại độc lập tự do.
Xem thêm: Chân dung cựu binh chuyên làm căn cước giả giúp điệp viên cộng sản thâm nhập vào sâu trong lòng địch