Những điều chưa biết về nghi lễ trai đàn chẩn tế trong Phật giáo
Trai đàn chẩn tế là nghi lễ của Phật giáo nhằm phổ độ những linh hồn không được thừa nhận, không nơi nương tựa, không phân biệt lãnh thổ và tầng lớp.
Nguồn gốc của trai đàn chẩn tế
Trai đàn chẩn tế là một nghi lễ truyền thống của Phật giáo Việt Nam. Nghi lễ này xuất phát từ thời Đức Phật, khi Ngài về thăm quê hương, đã có chỉ dạy cho Tôn giả A nan tổ chức cúng lễ cầu siêu giải oan cho ngạ quỷ, cô hồn, các Bà la môn tiên... Sau việc giải oan là bố thí ẩm thực cho những người nghèo khó có hiệu quả.
Nghi lễ trai đàn chẩn tế được nhắc đến trong kinh Phật Thuyết Đà La Ni Cứu Bạt Ngạ Quỷ Diệm Khẩu và xuất phát từ kinh Du già Tập yếu cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu Quỷ Nghi đời Đường,Trung quốc, Tam tạng Sa môn Bất Không phụng chiếu dịch Phạn ra Hán, tại Việt Nam do Quảng Minh dịch.
Một ngày nọ Tôn già A nan là thị giả theo Đức Phật về ở tại tịnh xá Ni Câu Luật Na, phía nam thành Ca tỳ La vệ. Đến đêm vào canh ba thấy có một ngạ quỷ tên là Diệm Khẩu, thân thể ốm yếu, trong miệng lửa cháy đỏ đến trước tôn giả A nan nói: “Sau ba ngày nữa mạng sống của Thầy sẽ hết, thác sanh vào loài quỷ”.
A nan nghe nói sợ quá và hỏi: “Sau khi tôi chết sanh vào ngạ quỷ, phải làm điều gì mới hết?”
Ngạ quỷ nói: “Sáng sớm ngày mai Thầy có thể bố thí nước uống thức ăn cho trăm ngàn na do tha hằng hà sa số ngạ quỷ, bố thí cho vô lượng Bà la môn tiên, các vị minh quan nghiệp ty phủ Diêm la, các vị quỷ thần, những người đã chết lâu xa các lọai ẩm thực thích ứng, mỗi vị sẽ nhận được 49 đấu ẩm thực được tính theo cái lượng đấu của nước Ma già đà, lại còn vì ngạ quỷ chúng tôi mà cúng dường Tam Bảo, thì Thầy được tăng thêm tuổi thọ, và bọn chúng tôi nhờ đó cũng được lìa cái khổ làm thân ngạ quỷ.
Tôn giả A nan đến thưa với Phật như thế. Phật dạy thiết lập đàn tràng chẩn tế ẩm thực cho trăm ngàn na do tha hằng hà sa số ngạ quỷ, bố thí cho vô lượng Bà la môn tiên, các vị minh quan nghiệp ty phủ Diêm la, các vị quỷ thần, những người đã chết lâu xa khắp mười phương các lọai ẩm thực thích ứng, giúp cho các loài thoát khổ.
Về tập tục tụng kinh siêu độ, theo Ngài Đạo An “vốn không phải là một tập tục truyền thống của Phật giáo”. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở Trung Quốc từ đời nhà Đường. Năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn, kéo binh về chiếm kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp yên giặc loạn, số người chết nhiều vô số kể. Triều đình bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh cầu siêu độ cho mọi người đã chết trong cuộc chiến. Dân chúng thấy triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm theo, cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh chư Tăng tụng kinh cầu siêu độ. Từ đó mà lễ cầu siêu độ cho người chết trở thành một tập tục trong dân gian.
Tập tục cầu siêu đến Việt Nam bắt đầu từ thời nhà Lý. Đó là việc tổ chức các trai đàn chẩn tế, gọi là “diệm khẩu phổ thí pháp hội” nghĩa là đại hội về Phật Pháp để bố thí thức ăn cho quỷ đói. Pháp này được thực hành trên tác phẩm mang tên là “Thí Chư Ngạ Quỷ Ẩm Thực Cập Thủy Pháp” do Ngài Bất Không dịch vào thế kỷ thứ tám, đời Đường và hiện nay, trong thời khóa tụng niệm buổi chiều, các chùa ở Việt Nam thường có một nghi thức thí thực cô hồn, gọi là Mông Sơn Thí Thực. Nghi thức này có từ đời nhà Tống tại Mông Sơn, Tứ Xuyên, Trung Quốc, vì thế mới có danh xưng "Mông Sơn Thí Thực".
Trong “Thiền uyển tập anh”: Tăng thống Huệ Sinh (1064) đời vua Lý Thánh Tông, có để lại tác phẩm “Pháp Sự Trai Nghi” nói đến nghi thức chẩn tế. Vào năm 1789 sau khi đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu Vua Quang Trung đã ban sắc làm lễ tưởng niệm các chiến sĩ và tiến cúng cô hồn tử sĩ, kể cả quân Thanh đã tử trận.
Sau khi thống nhất sơn hà, năm 1802, vua Gia Long cũng thiết đàn siêu độ cho quan quân và những oan hồn uổng tử vì chiến cuộc do Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành chủ tế với bài văn viết bằng quốc âm Tướng Sĩ Trận Vong và Cô Hồn Thập Loại.
Ý nghĩa của trai đàn chẩn tế
Trai đàn chẩn tế, phân tích về mặt từ ngữ:
+ Trai là tịnh trai tinh khiết
+ Đàn là chỗ đắp cao lên để cúng kiến và phân phối, hay là một sập gụ cao lớn, sân khấu để thiết lễ cúng và chẩn phát gạo cho bá tánh.
Trai đàn có nhiều hình thức: Một là “trai đàn chẩn tế”, cầu siêu bạt độ, hai là “làm chay”, ba là lễ chẩn tế “trong chay ngoài bội”.
Đạo Phật quan niệm có nhiều cảnh giới khác nhau tồn tại trong thế giới này. Những người khi ở dương gian nếu có những suy nghĩ, lời nói và hành động xấu, hại người khác, gây oan nghiệp, hoặc bị chết do những nguyên nhân bất thường như tự tử, tai nạn.... không theo quy luật tự nhiên thì sẽ bị luân chuyển vào cảnh giới cô hồn, không siêu thoát, rất ít có cơ hội để đầu thai làm người trở lại. Với tinh thần từ bi, người học Phật không thể không nghĩ tới đối tượng đó.
Và nghi lễ này chủ yếu là nhắm đến họ, với quan niệm phải giúp đỡ họ tự nhận ra và tự tháo gỡ qua các khoa nghi chuyển tải Phật pháp và năng lực tâm linh, đạo lực của người hành trì. Trai đàn chẩn tế có thể tổ chức vào bất cứ thời gian nào trong năm và bất cứ vào dịp nào, chẳng hạn sau khi người thân mất, ngày chung thất, mãn tang..., nhưng quen thuộc nhất là vào dịp tiết tháng bảy âm lịch, mùa Vu lan - Báo hiếu theo truyền thống của Phật giáo Á Đông. Thời gian tổ chức thường sau 12 giờ trưa và không quá 0 giờ, vì theo quan niệm, khoảng thời gian đó thuộc về người âm, là thời gian thích hợp để giao tiếp với họ.
Năm 1965 Sư còn là Sa di tu ở núi có dự một lễ kỳ yên 3 ngày đêm tại Đền Hùng, xã Phước Hòa, quận Long Lễ, nay là huyện Tân Thành do Ông Nguyễn Văn Cầu chủ trì. Lễ này cũng được tổ chức trong “chay”, ngoài “bội”, tức là trong cúng chay, quý Sư tụng kinh cầu an cho bá tánh bá gia; ngoài cúng mặn kỳ yên cho xóm làng bình yên, có hát bội cải lương hồ quảng rất sinh động. Đây cũng là lễ cúng trai đàn nhưng với hình thức khác, có danh xưng khác, nhưng chủ yếu cũng vẫn lễ trai đàn cầu siêu bạt độ cô hồn chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn do chiến tranh, cầu an cho bá tánh.
Cúng trai đàn chẩn tế là bài pháp giáo hóa, thuộc ý giáo: “Các Phật tử có phương tiện sắm sanh quà bánh, giấy tiền vàng bạc, các lễ vật cúng kiến, thí đốt cầu cho cõi “âm” hao tốn bao nhiêu cũng làm cho kỳ được...như vây các vị cũng phải làm được cho người sống quá nghèo khổ, khiến cho được no đủ...”. Đây là cách giáo hóa khéo của Đức Phật “cúng cho người “âm” để cầu thọ được, thì bố thí cho người “dương” được no không từ chối. Cho nên đây là việc làm đúng mà người Phật tử phải tham gia.
Lập trai đàn chẩn tế ngày nay có từ 50 đến 100 vị Tăng, trong đó có vị Thầy Cả, 2 vị Yết Ma, các bậc giáo phẩm chứng minh và Ban Kinh Sư, hàng ngàn Phật tử tham dự.
Việc cúng kiến này dành cho các tổ chức tự viện lớn có khả năng thiết lễ, tập trung những Phật tử gia đình sung túc, các gia đình Phật tử nương theo đó mà ghi danh cúng kiến cầu khẩn. Cầu thỉnh quý Thầy, quý Sư các bậc cao Tăng, các bậc có đầy đủ phước đức, có nhiều lực dụng đến cúng thì hiệu quả, như cầu an, cầu siêu, cầu mưa thuận gió hòa, vượt qua những khó khăn trong công việc làm ăn...tổ chức như thế phước báo vô cùng, vì giúp cho hằng trăm, hàng ngàn Phật tử mãn nguyện.
Cách thiết trí trai đàn chẩn tế chuẩn nhất
Trong các lễ cúng thí Cô hồn, trai đàn chẩn tế được tổ chức quy mô nhất. Nó bao hàm cả hai khía cạnh văn chương và triết lý, gần như tất cả tinh hoa của tư tưởng và văn học Phật Giáo Đại thừa Mật Tông được gói trọn vào đây.
Về hình thức, trai đàn này dựa trên nền tảng của triết học Mật giáo. Tức bố trí theo một hình thức đơn giản của mạn đà la (mandala).
Đó là một vòng tròn, được tượng trưng như một đóa hoa sen nở trọn, và vòng tròn nầy là căn bản vũ trụ luận của Mật Giáo. Thông thường có hai bộ mạn đà la. Kim Cang giới mạn đà la (Vajradhàtu-mandala) biểu tượng cho trí huệ sở chúng của Phật. Thai tạng giới mạn đà la (garbhadhàtu-mandala) biểu tượng cho phương tiện độ sanh của Ngài. Mỗi mạn đà la đều dựa trên một số chủ điểm tư tưởng của Phật giáo Đại thừa. Chủ điểm đáng ghi nhớ nhất, đại lược như sau:
Trước hết, chúng ta nên biết rằng theo quan điểm truyền thống Phật giáo, vũ trụ gồm hai thành phần. Một đằng là nhân cách, tức lấy con người hay các loài hữu tình làm bản vị, mà trên hết, lấy nhân cách của Phật làm biểu hiện cho bản thể tuyệt đối. Đằng khác nữa, là thế giới của nhân cách, là những pháp sở chứng và thọ dụng bất khả tư nghị của Phật. Nhân cách có năm yếu tố, gọi là năm uẩn: sắc, thọ tưởng, hành, thức. Chúng tập hợp lại thành một bản ngã giả tưởng nên được gọi là uẩn. Thế giới của nhân cách được cấu tạo bởi bảy yếu tố, gọi là thất đại: địa, thủy, hỏa, phong, kiến, thức và không.
Trên cơ sở giáo nghĩa này, trước hết mạn đà la của Kim cang giới được thiết lập để biểu hiện trí huệ sở chứng của Phật. Kim cang là loại chất rắn không bị bất cứ gì hủy hoại được. Do đó kim cang được vận dụng như một khái niệm cụ thể hóa yếu tính tồn tại của Phật thân, gọi là kim cang bất hoại thân vajrasauhatanakàya). Thân ấy, cũng như thân của tất cả mọi loài chúng sinh, đều do năm uẩn và năm đại cấu thành. Nhưng tồn tại của Phật thân không khác biệt với hoạt dụng của Phật trí. Do đó, năm đại tương ứng với năm trí. Và nhân cách của Phật, như là chỉnh thể thống nhất của tồn tại và nhận thức, được biểu hiện thành năm đức Như Lai tương ứng, tức Ngũ Trí Như Lai, hay năm vị Thiền Phật.
Dưới đây là mô tả sơ lược một trai đàn chẩn tế từ trong ra ngoài:
Nội đàn:
Bàn Phật: Tại chùa có Chánh điện, tại tư gia có Bàn thờ Phật là nơi Tham Lễ Giác Hoàng
Bàn kinh: Nơi để nghi thức, chuông mõ, pháp khí.
Ngoại đàn:
Màn Sư tử tòa: Sư tử tòa là chỗ ngồi của Phật. Phật là bậc oai đức hơn tất cả chúng sanh. Cũng như sư tử dõng mãnh hơn tất cả các thú. Chớ chẳng phải Phật ngồi trên mình con sư tử. Cho nên dù Phật ngồi bất cứ đâu, dù trên ghế, hòn đá, gốc cây hay mặt đất. . . thì những chỗ đó đều gọi là Sư Tử Tòa. Vậy bức màn Sư Tử Tòa là bức màn có hình con sư tử được vẽ rất oai nghiêm, dõng mãnh treo sau lưng vị Gia Trì Sư, tượng trưng chỗ ngồi của Phật.
Bảo Tọa: chỗ ngồi của Gia Trì Sư, khi ngồi vào đây là đại diện chư Phật vì chúng sanh, đặc biệt là cô hồn mà tuyên dương Chánh pháp. Theo khoa nghi, trước khi vị chủ sám vào chỗ ngồi phải cung hành một nghi thức mật pháp rất trang nghiêm. Sau khi cung thỉnh Ngũ Phương Phật xong , vị chủ sám đến đứng trước bàn Giác Hoa. Vị tả kim đài 1 đứng ở vị trí ở bàn kim đài, hai tay nâng thủ lư cung thỉnh Vị Gia Trì Sư đăng bảo tọa để thuyết giới cho cô hồn. Sau khi vị Gia Trì Sư đáp lại và xin chư Phật cho phép đăng bảo tọa. Vị tả kim đài 1 ra lệnh cử chuông trống bát nhã bằng động tác vỗ vũ xích, chuông trống bát nhã cử hành, Vị Gia Trì Sư quay về trái đi lên bảo tòa. Kinh sư vào vị trí bàn kim đài.
Màn song khai: Trước bảo toạ là bức màn phân làm đôi, được đóng lại hoặc mở ra tùy theo lúc qui định trong khoa nghi.
Bàn kim đài: Kinh sư ngồi hai bên tả hữu mỗi bên ba hay bốn vị. Thứ tự tính từ trong ra ngoài. Có một vài sự đổi thay nhỏ tùy vùng xử dụng tang và mõ. Huế, kinh sư ngồi ghế để đầu trần. Bình Định, kinh sư ngồi xuống chiếu, đầu đội tỳ lư, sử dụng 2 đẩu (giống cái tang nhưng không có cán) và mõ. Miền nam, kinh sư ngồi ghế đầu trần, xử dụng 2 đẩu và mõ.
Bàn Giác Hoa: Giác hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, một đức Phật ở cõi Ta bà, hồi đời qúa khứ cách nay không biết bao nhiêu kiếp. Ngài có tuổi thọ bốn trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp. Về đời tượng pháp của đức Phật ấy có một cô gái Bà la môn, nhơn mẹ vừa khuất, đến chiêm lễ tượng Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương tại chùa cầu cho biết hồn mẹ ở chốn nào, ngài liền khiến thần thức của cô gái ấy đến cõi địa ngục. Nơi đây quỷ vương cho biết nhờ phước đức cúng Phật và bố thí của thánh nữ, hồn bà được thoát cảnh điạ ngục mà lên cảnh tiên. Cô gái ấy tức là tiền thân của Địa Tạng Bồ Tát.
Các án Ngũ phương Phật: Ngũ phương Phật là một hệ thống phối trí chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ pháp hết sức thâm diệu của Phật giáo Mật Tông, Ngũ phương Phật là sự phối hợp giữa Ngũ phương, Ngũ Trí, Ngũ Phật, Ngũ Bộ và Ngũ Hành trong Thai Tạng Mạn đà la và Kim Cang Giới Mạn đà la. Theo sự truyền thừa của Phật giáo Việt Nam từ xưa đến nay trong Trung Khoa Du Già Tập Yếu khắc bản năm Mậu Tý triều Vua Đồng Khánh và bài viết “Lễ tháng bảy cho những oan hồn phiêu bạt” của Thầy Tuệ Sĩ, đàn tràng Chẩn tế tại Việt Nam được cung trần theo Kim Cang Giới Mạn Đà La. Chúng tôi xin trình bày khái quát như sau:
Kim cang giới mạn đà la là thuyết minh hoạt dụng của trí huệ sai biệt trong lý tính không sai biệt, do đó Ngũ trí Như lai là trọng tâm của mạn đà la nầy. Hình dạng cơ bản là một hình tròn, gọi là nguyệt luân (candramandala). Bên trong hình tròn nầy thiết lập các biểu tượng của năm vị Như Lai.
Án Trung ương: Chính giữa là vị trí Đức Phật Tỳ Lô Giá Na tức Đại Nhật Như Lai (Mahà Vairocana – Tathàgata) hiển thân sắc màu vàng, đối diện với bàn Giác Hoa. Đó là Pháp thân Phật (Dharmakàya Buddha), như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung cùng khắp vũ trụ. Trong năm đại, Ngài biểu tượng cho không đại (àkàzadhàtu), và bản chất của hư không là bao dung. Trong năm uẩn, Ngài là biểu tượng của thức uẩn. Trong năm loại trí, Ngài biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí.
Bốn phương chung quanh Ngài Đại Nhật Như Lai là vị trí của bốn đức Như Lai, theo thứ tự từ Đông qua Nam cho đến Bắc mà quý vị trong khoa Chẩn Tế thường nói cho dễ nhớ: Tả Đông, Nam. Hữu Tây; Bắc (từ trong đi ra) theo chiều kim đồng hồ, tức bên tay trái là phương Đông và Nam, bên tay phải là phương Tây và Bắc như sau:
Án Phương Đông: A Súc Phật (Akwobhya) hay Bất Động Như Lai, hiển sắc thân màu xanh, trở mặt vào án Trung ương với các biểu tượng: Phong đại (vàyu-dhàtu), nhờ đó mà vũ trụ có vận động; hành uẩn động cơ tạo tác của các loại hữu tình; Đại viên cảnh trí, như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi hiện tượng sinh thành và hủy diệt của thế giới.
Án Phương Nam: Bảo Sanh Phật (Ratnasambhava), hiển sắc màu đỏ, trở mặt vào Trung ương) với các biểu tượng: Hỏa đại (tejo-dhàtu), khả năng làm chín muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sanh và thế giới; tưởng uẩn, khả năng truy ức quá khứ và ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa; Bình đẳng tánh trí, khả năng quan sát bình đẳng các pháp không bị ràng buộc ngã và pháp.
Án Phương Tây: A Di Đà Phật (Amitabhà), hiển sắc màu trắng, trở mặt vào Trung ương), biểu tượng Thủy đại, khả năng kết hợp các pháp để tác thành duyên sinh hay duyên khởi; thọ uẩn, khả năng hưởng thụ thành quả của các vận động; Diệu quan sát trí, nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu, của tác dụng sinh khởi, tồn tại và hủy diệt.
Án Phương Bắc: Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi), hiển sắc màu đen, trở mặt vào Trung ương, biểu tượng Địa đại, khả năng duy trì sự tồn tại của vũ trụ; sắc uẩn, tác thành thế giới hữu tình; Thành sở tác trí, thể hiện các phương tiện giáo hóa chúng sanh.
Phía sau Ngũ phương Phật là:
Bàn Địa Tạng (đồng hướng với Trung ương)
Bàn hộc thực (thấp, để đồ cúng Cô hồn)
Bàn Tiêu Diện (cao hơn bàn Địa Tạng)
Văn khấn thỉnh hương hồn chẩn tế
Nam Mô Bổn Thích Ca Mâu Ni Phật
1. Nam Mô Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà.
Nam mô Tiêu Diện Đại Sĩ Bồ Tát Ma Ha Tát. (chuông)
Hôm nay đây cảnh đàn nghi ngút
Hương hoa thơm bay vút trời cao
Tỏa ra khắp chốn dạt dào
Mười phương tám hướng thấu vào tận nơi
Lòng thành kính thỉnh mời hết thảy
Nước dương chi thấm rảy cùng hoa
Tịnh bình rưới khắp hằng sa
Cho hồn tỉnh thức để mà nghe kinh
Này bao kẻ hương linh lúc trước
Nạn chiến tranh chưa được giải oan
Bởi hay cách trở nhiều đàng
Trong thời loạn lạc tan hoang cửa nhà
Hoặc cửu huyền ông bà thân quyến
Đã nhiều đời trận chiến xưa nay
Duyên đưa nghiệp đẩy chẳng may
Bởi do vận nước đổi thay lắm lần
Nạn chiến tranh tham sân gây tạo
Khắp mọi nơi trái đạo cương thường
Ở trên vạn nẻo ngã đường
Ngày nay gặp dịp muôn phương hãy về
Nghe kinh kệ u mê tan biến
Giải thoát vui tinh tiến bước lên
Niềm tin chí nguyện vững bền
Mau mau hồn hỡi chẳng phiền ngại chi
Oan chưa giải gia đình anh chị
Hoặc những người mến quý thân thương
Từ nay biết rõ con đường
Pháp mầu Tam Bảo tình thương an lòng
Này hồn hỡi sáng trong nên biết.
Phật Thích Ca tha thiết dạy rằng
"Lấy ân báo óan, oán tiêu
Lấy oán báo oán, càng nhiều oan gia"
Muôn hồn hãy nhớ mà tỉnh ngộ.
2. Phật hằng sa vô số Đông Phương (chuông)
Mở lòng âu yếm xót thương
Phóng quang, trợ giúp dẫn đường siêu sinh
Tâm tĩnh lặng hòa bình thế giới
Lòng ăn năn, sám hối tội tiêu
Mất thân chiến trận bao nhiêu
Lập đàn chẩn tế cầu siêu hương hồn
Pháp bình đẳng thảy không phân biệt
Khuyên quay về tha thiết rõ ràng
Khắp nơi thế giới các hàng
Sân si tạo nghiệp, thân tan nát hình
Bởi hay khởi ý tại mình
Nương vào câu kệ, lời kinh thoát nàn
Chuyện quá khứ chẳng bàn đến nữa
Phật từ bi chan chứa tình thương
Xa rời bao nỗi vấn vương
Nhẹ nhàng giải thoát quê hương mọi miền
Nước Nam ta hồn thiêng sông núi
Một ngàn năm đô hộ xâm lăng
Trăm năm đằng đẳng giặc Tây
Ngày nay triệu thỉnh về đây hội đàn
Khắp đất nước các hồn oan báo
Triều Đinh Lê còn lắm đinh ninh
Kính thỉnh chư Phật chứng minh.
3. Nam phương vô số siêu sinh muôn hồn. (chuông)
Hoặc những người vùi chôn đất ướt
Bị sa lầy vũng nước gò hoang
Bá, điền, thôn, hộ, chủ, làng
Hoặc là thầy Lý, Văn, Đoàn, Hương xưa
Hoặc là người nắng mưa tầm tã
Phận bán buôn, vất vả gian truân
Thức khuya dậy sớm tảo tần
Nguy cơ một lúc thiệt thân khó lường
Bị giặc cướp giữa đường bỏ xác
Đã lâu ngày, cỏ rác vùi lấp
Hình hài còn lại nằm đất
Vô danh , vô vị. thật rất tội tình
Giờ này thỉnh Phật chứng minh.
4. Tây phương vô số dạy kinh thoát nạn. (Chuông)
Hoặc có kẻ than van đơn lạnh
Hoặc là người bất hạnh số duyên
Không thầy, chẳng có bạn hiền
Chết sông, tử trận triền miên phiền lòng
Hoặc có kẻ mục đồng lên xuống
Tắm ao khe, nước cuốn mất thây
Hôm nay, gặp hội đàn chay
Vãng lai lui tới dịp may hưởng nhờ
Hoặc những kẻ dại khờ, ú ớ
Hoặc là người rong rỡ điếm đàng
Hoặc người cày cấy mùa màng
Gặp cơn gió độc , tử tang thình lình
Hãy về đây nghe kinh được cứu
Vơi bớt phần nặng trĩu bấy lâu
Nhất tâm kính Phật nguyện cầu.
5. Bắc phương thế giới nhiệm mầu giúp cho. (chuông)
Hoặc có kẻ rủi ro khốn đốn
Hoặc là người ám độn mê hồn
Chết rồi chẳng có ai chôn
Hôm nay nghe thỉnh, thiêng khôn hãy về
Hoặc có kẻ hành nghề cúng bái
Thế gian truyền, tiền giả giấy vàng
Theo Kinh Phật dạy rõ ràng
Nghiệp lành xa hẳn, tăng đàng ác duyên
Mau tu sửa tinh chuyên chánh tín
Niệm Nam mô cất tiếng thường xuyên
Nếu không đọa lạc liên miên
Mau mau hồn hỡi khôn thiêng hãy về
Hoặc có kẻ nhà quê sái dược
Hoặc tiều phu xuôi ngược trên ngàn
Hôm nay mời tới dự đàn
Hưởng mùi Pháp vị, thiên đàng rong chơi
Hoặc có kẻ tắt hơi vì đói
Chẳng trối trăng, chẳng nói được gì
Vô thường chốc lát biệt ly
Bốn lăm năm ấy. giờ thì siêu sinh (1945)
Hoặc quân đội, bộ binh, lính thủy
Những anh hùng, chiến sĩ Bắc, Nam
Mất tích, biển cả núi hang.
6. Thỉnh Phật Phương hạ rải ban pháp lành. (chuông)
Hoặc chú bác, chị anh hai phía
Khi chiến tranh hoảng vía mất thây
Hôm nay xin hãy về đây
Thương yêu đồng loại, bắt tay thắm tình
Hoặc các nước quên mình giúp đỡ
Chiến tranh xưa đã lỡ tạo ra
Đồn điền trận chiến xông pha
Nay bình đẳng cả một nhà Á Âu
Hồn ngoại bang ở đâu cũng thế
Nhanh về đây dự lễ Quy Y
Hào quang Phật chiếu đường đi
Giúp hồn tỉnh thức sân si tẩy mòn
Nghiệp chúng sinh muôn hồn tất cả
Còn tối tăm vạn ngã điêu linh
Về đây sẽ được an bình
Giải oan bạt độ, tâm tình thương yêu
Hoặc người bị lửa thiêu dang dở
Hoặc là người cùi, lở thảm thương.
7. Thỉnh vô số Phật Thượng Phương. (chuông)
Độ hương hồn được tựa nương lâu dài
Hoặc có kẻ ở ngoài biển cả
Bị sóng vồ, tơi tả thuyền bè
Hoặc là đỉnh núi, dốc khe
Đèo cao, đường hiểm, nạn xe càng nhiều
Biết bao kẻ tan tiêu tử nạn
Hoặc người thân, hoặc bạn, hoặc bè
Thiệt mình xin hãy lắng nghe
Ở đây dung lượng chở che trẻ già
Các oan hồn gần xa độ tận.
8. Phật, Pháp, Tăng lân mẫn xót thương. (chuông)
Hương hồn an ổn tựa nương
Thấm mùi pháp vị thuận đường siêu sinh
Ôi ! Những kẻ treo mình thắt cổ
Hoặc là người thiểu số sơn khê
Cũng như người thượng mù què
Rừng thiêng nước độc lắng nghe hãy về
Dân tộc Thái, nhiều bề trở chướng
Hoặc Cờ Ho, Mường Mán Nùng Tày
Ở trong quốc độ xưa nay
Chiến tranh cũng lắm, vui ngày cũng chưa
Nay gặp hội đàn vừa triệu thỉnh
Khắp nơi nơi Phật tính chung lòng
Tâm hồn hướng đến sáng trong
Hướng về thấu rõ thoát vòng u mê
Hỡi chúng sanh não nề lắm chổ.
9. Thỉnh Quan Âm Phổ hộ chứng minh. (chuông)
Lòng từ quảng độ oai linh
Cứu vớt tất cả chúng sinh xứ này
Hoặc có kẻ dựng xây nhà cửa
Trên lầu cao ngã ngữa tử ngay
Sa chân lỡ bước trượt tay
Hôm nay biết được về đây hội đàn
Hoặc nam nữ trong hàng sư sãi
Phá luật nghi, trở ngại chúng tăng
Lời kinh Đức Phật dạy rằng
Ăn năn sám hối siêu thăng lên tòa
Hoặc có kẻ tại gia sát hại
Giết chúng sinh mãi mãi chẳng tha
Tội này chồng chất hằng sa
Hãy mau sám hối lên tòa nghe kinh
Hoặc có kẻ bán mình vì hiếu
Nơi lầu xanh kế liệu mưu sinh.
10. Thỉnh Đức Địa Tạng chứng minh. (chuông)
Đại Thánh, Đại nguyện oai linh hộ đàn
Hoặc có kẻ luận bàn xúi dục
Gây tang thương giây phút nguy cơ
Trai đàn đúng lúc kịp giờ
Nghe kinh giải thoát qua bờ bình yên
Hoặc thi sỹ toàn chuyên bút giấy
Khiêu vũ người nổi dậy loạn tâm
Gián tiếp, trực tiếp gieo mầm
Xa rời nghiệp thiện nhiễm trần càng thêm
Hãy dừng lại xây nền đạo lý
Quyết một lòng ý chí viết lách
Bao người sửa đổi tư cách
Đẹp thêm xã hội nhân cách con người
Điều tốt tươi rõ ràng như thế
Bút giấy kia bách tuế về sau
11. A Nan Tôn Gỉa nhiệm màu. (Chuông)
Độ cho tất cả cùng nhau về đài (Đài Liên Hoa)
Hoặc những kẻ gái trai, già trẻ
Khi bán buôn sớt sẻ lường đong
Thợ vàng, thợ bạc, thợ đồng
Thợ may, thợ máy, tấm lòng nghĩ sao
Giữ cho được thanh cao hơn cả
Dưỡng an lành, dối trá lìa xa
Thợ thuyền, thợ xưởng, thợ nhà
Cùng nhau tu sửa bước qua thuyền từ
Hoặc những kẻ vô cư quá cố
Cảnh chia ly duyên số nửa vời
Than van khóc lóc vang trời.
12. Như Lai, Đa Bảo chẳng rời độ tha. (chuông)
Giúp hương hồn vượt qua bể khổ
Siêu về nơi Tịnh độ vui vầy
Hoặc là hành khất ăn mày
Lang thang đường chợ chết đầy xưa nay
Bốn mùa mưa gió đổi thay
Giải oan bạt độ, dịp may hãy về
Hoặc những người làm nghề y sĩ
Chữa bệnh nhân ích kỷ tấm lòng
Hoặc người vu khống, nói không
Chết rồi phảng phất hồn không được về
Hoặc những kẻ làm thuê cuốc mướn
Phận côi hèn nghiệp chướng tội tình
Phương xa mất hẳn thân mình
Người nhà chẳng biết được tin thế nào.
13. Đức Bảo Thắng Truyền Trao Thọ Ký. (chuông)
Hỡi hương hồn mến, quý về đây
Chẩn đàn, nghiệp cũ chuyển xoay
Siêu sinh tịnh độ vui thay lâu dài
Hoặc có kẻ lừa sư, gạt sãi
Bày âm mưu chướng ngại Tăng Ni
Hồn như thế vậy bất tri
Mau lo tu sửa bước đi sáng ngời
Trai đàn này thỉnh mời tất cả
Biết hồi đầu buông, xã ổn an
Hoặc là những kẻ đãi vàng
Hầm sâu đá sụp, lại càng xót thương
Hoặc máy bay giữa đường tai nạn
Mất tích luôn các bạn trẻ già
Hoặc là quan chức, án tòa
Xử sai oan ức, van la bao người
Nay cung thỉnh tốt tươi tận hưởng
Tội lỗi tiêu, ám chướng xa dần.
14. Thỉnh Như Lai, Diệu Sắc Thân. (chuông)
Độ cho hết thảy về gần Thế Tôn
Hoặc Phật tử, hoặc hồn ngoại giáo
Đã quy y hoặc, chưa quy y
Pháp mầu bất khả tư nghì
Diễn khai mở rộng đường đi nhẹ nhàng
Thấu tất cả thôn làng, núi, biển
Do vô thường chuyển biến đổi thay
Vô tình những lúc rủi, may
Hoảng hồn điện giật, lần này lắng nghe
Hoặc những người lái xe bất định
Gặp nạn tai chẳng tỉnh vu vơ
Mau mau hãy kịp đến giờ
Nương thuyền Bát nhã bến bờ an vui
Biết bao kẻ sụt sùi như thế
Chẩn đàn này chẳng để sót ai.
15. Thỉnh Quảng Bát Thân Như Lai. (chuông)
Độ cho hết thảy trong, ngoài tận nơi
Hoặc có kẻ chơi bời bài bạc
Hoặc rượu chè, thói ác xưa nay
Sống thì vất vưởng qua ngày
Chết thì nghiệp nặng , sâu dày đoạ sa
Hoặc những hồn mẹ cha vứt bỏ
Bào thai còn non nhỏ, thiếu nhi
Bị người phá nạo, tẩy đi
Oán trời trách đất, biết khi nào hoàn
Những hồn này, biến toàn yêu quái
Hận trách người, phá hoại khắp nơi.
Thiệt thân, ý chí chẳng dời
Tiểu yêu oán trách báo đời thảm thương
Nay nhờ Phật một phương cứu độ
Giúp tiểu nhi vô số khắp nơi
16. Phật Ly Bố Uý Sáng Ngời. (chuông)
Độ cho hồn được tới nơi sen vàng
Hoặc Thần Hoàng, xã, làng thờ tự
Bấy lâu nay nương ngự miếu đền
Có tên, hoặc lạc mất tên
Quan Chầu, Mẫu Tướng cũng nên hội đàn
Nương tựa Phật rõ ràng hơn cả
Pháp từ bi, hỷ xã nơi lòng
Hoặc là Thần, Thánh, Tiên ông
Hoặc là Cô, Cậu, Núi sông chúa ngàn
Chưa giải thoát một đàng rõ lắm
Pháp nhiệm mầu đằm thắm vui thay.
17. Thỉnh Cam Lồ Vương Như Lai. (chuông)
Mở đường giác ngộ chuyển xoay rõ ràng
Hoặc có kẻ ngang tàng bất hiếu
Nuôi mẹ cha thốn thiếu đủ bề
Tinh thần tư tưởng gớm ghê
Làm cho cha mẹ ê chề khổ đau
Các hồn này trước sau đọa lạc
Vậy mau mau bỏ ác cho rồi
Hoặc là những kẻ lôi thôi
Phản thầy hại bạn đứng ngồi kế mưu,
Đường đạo đức, dắc dìu dang dở
Gây oán thù nhiều thuở chưa nguôi
Giờ này tâm ý chín muồi
Hướng về theo Phật để rồi siêu sanh
Tâm ý sạch, tịnh thanh cõi Phật
Đã giác rồi, một lúc siêu sinh
Rõ đường ánh sáng quang minh.
18. Nguyện Mười Phương Phật Hiển Linh Độ Trì. (chuông)
Hưởng pháp lạc đường đi nuôi dưỡng
An trú vui, tuyên xướng lục hòa
Đã đi theo gót Phật Đà
Ánh đèn bát nhã, một nhà hữu duyên
Nương tăng chúng, cửa thiền gốc rễ
Xây tình người, huynh đệ có nhau
An nơi hơi thở nhiệm mầu
Bước chân giải thoát lo âu xa rời
Pháp vi diệu thảnh thơi sau trước
Tỉnh thức người, rõ bước đường đi
Thật là bất khả tư nghì
Vô vi cũng tiến, hữu vi chẳng lùi
Hương ngũ phần ngát mùi khắp chốn
Cửa thiền môn tiệm, đốn, pháp khai.
Hiền ngu, già trẻ, gái trai
Nhẹ nhàng siêu thoát trong ngoài xưa nay
Hướng đã vậy chung tay tấn tốc
Chuyển tâm lành mấy chốc, hỡi ai
19. Thỉnh Đức Di Đà Như Lai. (chuông)
Cánh tay bác ái, rộng dài chở che
Hoặc những kẻ xì ke, ma tuý
Do vô minh, suy nghĩ lầm sai
Liều mình nghiệp trộm kéo dài
Chết rồi sẽ bị đọa đầy long đong
Hoặc những kẻ chất chồng bệnh hoạn
Hoặc ung thư, rối loạn tinh thần
Hoặc là những kẻ nịnh thần
Tham ô móc ngoặc nhiều lần dối gian
Hoặc những người lang thang côi cút
Hoặc là người vi rút Si - đa
Mau về nương cửa Phật đà
An vui, tự tại bước qua thuyền từ
Hoặc những người thủy ngư, chài lưới
Hoặc những nơi động đất sóng thần
Hoảng hồn cuốn sạch nhiều lần
Tan tành một lúc chịu phần khổ đau
Nay cửa Phật nhiệm mầu tưởng đến
Gửi gắm tình, hồn được tiêu diêu
Nhất tâm, hướng về đàn siêu
Cam lộ pháp vị, thỉnh chiêu muôn hồn.
20. Đức Văn Thù ôn tồn cứu độ. (chuông)
Pháp lực giúp vô số tựa nương
Trí lành phương tiện chỉ đường
Hoá thân ban rải tình thương tràn đầy
Tiếp dẫn hồn về đây nghe pháp
Hưởng Cam Lồ thọ nạp siêu sinh
Một lòng thính Pháp văn kinh
Món ăn Thiền duyệt hiển linh nhiệm màu
Chẩn đàn này nguyện cầu hết thảy
Này hương linh hãy giữ niềm tin
Cấu trần rửa sạch phân minh
Sinh lên cõi thượng tâm tình an nhiên
Bao cảnh đẹp tốt hiền như thế
Giữa vườn xuân bách tuế nhân từ
Hiền lành quả báo thừa dư
Sinh về Thượng Phẩm an cư vững bền
Lý tưởng đẹp một nền chung hưởng
Nghiệp bao đời tội chướng tiêu tan
Lòng từ Bồ tát truyền ban
21. Phổ Hiền hạnh nguyện sẵn sàng chở che. (chuông)
Muôn hồn hãy lắng nghe cho kỹ
Chuyển tâm mình giản dị hơn xưa
Đông, Tây, Nam, Bắc có vừa
Nguyện cầu Bồ Tát rước đưa hồn về
Đây phương tiện một bề chuyển hóa
Pháp hội đàn Âu, Á gần xa
Về đây huynh đệ ruột rà
Về đây sưởi ấm một nhà xưa kia
Tình anh em chia lìa bao kiếp
Chịu đã nhiều liên tiếp oan gia
Nay nhờ Phật Pháp Tăng già
Chỉ cho lối thoát bước qua thuyền từ
Hãy định tĩnh tiêu trừ các nạn
Đã về đây chung bạn chung bè
Mười phương tám hướng chở che
Mong hồn tỉnh thức để nghe hội đàn
Này các hàng mau mau an tọa
Đạo từ bi, vô ngã vị tha
Trời cao biển rộng, núi nhà
Thỉnh hồn có Đức Di Đà hộ duyên
Hàng thất chúng hiện tiền niềm nở
Lớp Tăng ni rực rỡ y vàng.
Sẵn sàng chánh niệm hộ đàn
Cầu cho hồn được thoát màn vô minh
Kể từ nay vươn mình đứng dậy
Vô lượng quang tiếp lấy các người
Cười lên một nét cho tươi
Giải thoát rốt ráo vui chơi thỏa lòng
Thân ngũ uẩn giai không chớ tiếc
Tứ đại kia giã hợp ấy thôi
Nếu còn lưu luyến đứng ngồi
Trôi lăn lục đạo luân hồi khổ đau
Hãy chấp tay mau mau nghe thỉnh
Thọ tam quy vĩnh viễn lâu dài
Đàn siêu chẳng bỏ sót ai.
22. Tạ Mười Phương Đức Như Lai hộ đàn. (chuông)
Âm dương được bình an thịnh vượng
Ánh từ bi vô lượng vô biên
Cầu cho tất cả mọi miền
Tâm đồng như Phật siêu nhiên thoát trần
Thế giới được muôn phần lợi lạc
Thánh phàm đều tiến, khác hơn xưa
Phước duyên thấy rõ nhất thừa
Đồng cùng giải thoát đàn vừa đã xong
Khắp Tam giới hư không cùng tận
Niềm hạnh phúc nghiêm tấn mỗi ngày
Biết ơn Hộ Pháp đàn chay
Thiên nhân lợi lạc vui thay tạ đàn
"Giải kết, giải kết, giải oan kết
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết
Rửa sạch lòng trần, phát tâm thành kính
Đối trước đàn tràng cầu xin giải kết"
Nam Mô Giải oan kết Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát Ma Ha Tát,
Tiếp theo Kinh Di Đà.
Mông Sơn thí thực
Bát Nhã niệm Phật hồi hướng.
Xem thêm: Cách tụng kinh cầu siêu cho người chết tại nhà chuẩn nhất
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận