Ôn thi tốt nghiệp: Tặng 2k6 bộ đề cương 9+ các tác phẩm văn xuôi trọng tâm

Dưới đây là những bài phân tích chi tiết cho từng tác phẩm trọng tâm trong chương trình Ngữ văn 12 mà các bạn học sinh 2k6 không thể bỏ qua.

Đỗ Thu Nga
10:00 28/05/2024 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Vợ chồng A Phủ

Tô Hoài được biết đến không chỉ là cây bút của những câu chuyện loài vật mà ông còn được biết đến là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ, đặc biệt là sau cách mạng ngòi bút của ông tập trung nhiều hơn vào số phận của những người nông dân Tây Bắc. Với tài năng, sự cần mẫn của mình ông đã tạo nên những tác phẩm để đời và một trong những số đó là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm sáng lên là nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, luôn khát khao hạnh phúc, được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân.

Mị vốn là cô gái xinh đẹp, giàu sức sống và yêu lao động. Gia đình nợ món tiền lớn của nhà thống lí Pá Tra, nhưng cô vẫn một mực xin cha cho làm nương, làm rẫy để trả nợ dần. Nhưng số phận bất hạnh, Mị bị A Sử bắt đi và chính thức trở thành con dâu gạt nợ với chuỗi ngày kinh hoàng bị bóp nghẹt, mài mòn cả về thể xác và tinh thần. Người ta không còn thấy một người con gái nhanh nhẹn, yêu lao động, yêu cuộc sống mà thay vào đó là một người phụ nữ tàn tạ, héo úa, “như con rùa lùi lũi trong xó cửa”. Cuộc sống của Mị bị cầm tù chẳng khác nào cái buồng cô sống chỉ có một cái cửa ô vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nằng. Tưởng rằng cuộc đời cô sẽ cứ lầm lũi như vậy cho đến lúc chết, nhưng không, tất cả đã thay đổi trong đêm tình mùa xuân ấy.

Xuất phát điểm, Mị là cô gái giàu sức sống, nhưng do sự tàn độc của gia đình thống Lí đã bào mòn, bẻ gãy gần như tất cả khát vọng sống của cô. Bằng tài năng bậc thầy trong miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, chu đáo cho sữ trỗi dậy mạnh mẽ của Mị trong đêm tình mùa xuân.

Tác giả đặt quá trình trỗi dậy của Mị trong không khí mùa xuân. Mùa xuân Tây Bắc với âm thanh náo nhiệt, rộn rã với màu sắc tươi vui đã làm bừng lên sức sống trong vạn vật và con người. Dù những chi tiết Tô Hoài đưa vào để miêu tả không khí mùa xuân Tây Bắc có phần khác lạ và mới mẻ, nhưng chính nó đã tạo nên nét riêng biệt cho tác phẩm. Đông thời không khí mùa xuân bao giờ cũng gắn liền với tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc, bởi vậy không khí ấy cũng có tác động ít nhiều đến tâm lí Mị. Thứ hai đó là sự tác động của men rượu. Mị uống rượu vào ngày tết cũng như biết bao người khác, nhưng cái cách mà cô uống lại rất khác. Cô uống ừng ực từng bát, uống như trút giận, cho vơi đi những đau đớn, tủi hờn. Và cuối cùng là sự xuất hiện của tiếng sáo. Tiếng sáo vừa gợi lên không khí mùa xuân vui tươi, náo nức, vừa gợi nhắc về quá khứ đẹp đẽ, đồng thời đây cũng là tác nhân quan trọng làm bừng lên khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.

Tiếng sáo dù mới chỉ lấp ló ở đầu núi nhưng đã hiến Mị tha thiết, bồi hồi, nó không chỉ là tiếng sáo gọi bạn tình mà còn là tiếng của sự sống đang cựa quậy hồi sinh trong tâm hồn Mị. Bởi vậy, nếu như trước đây Mị chối từ phương tiện giao tiếp của con người là ngôn ngữ để tồn tại một cách câm lặng thì giờ đây ngôn ngữ đã trở lại dù đó mới chỉ là tiếng nói thầm: “Mị ngồi nhẩm nhầm bài hát của người đang thổi: Mày có con trai con gái rồi/…/Ta đi tìm người yêu”. Nội dung bốn câu hát chính là viết về tình yêu nên nó thôi thúc Mị càng mạnh mẽ hơn, thúc Mị hãy thoát khỏi địa ngục trần gian.

Sự tác động của mùa xuân và hơi men đã khiến Mị chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Mị lịm đi và nhứ về những ngày trước, lúc này chỉ có thể xác của Mị thuộc về hiện tại khổ đau còn tầm hồn, tư tưởng đã quay trở về quá khứ đẹp đẽ. Những kí ức tươi đẹp sống lại trong lòng Mị, thổi bùng trong Mị khát vọng hạnh phúc và mong muốn đoạn tuyệt với hiện tại. Nhưng dù Mị đã trối bỏ thực tài, khát vọng hạnh phúc đã được thắp lên nhưng “Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng”. Hành động này như một quán tính, một thói quen của cô. Bởi vậy, chỉ có một tiếng sáo, một chút men rượu vẫn chưa đủ để cô cắt đứt hoàn toàn với thực tại. Trong vô thức Mị vẫn bị cuộc sống đó cầm tù, giam hãm. Mị nhìn ô cửa sổ và nó đã đánh động Mị về chuỗi ngày sống mỏi mòn trong nhà thống lí Pá Tra, chính điều ấy đã đưa cô đi đến quyết định đoạn tuyệt, nếu có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ quyết ăn mà chết ngay mới thôi. Sự sống và cái chết trong Mị không còn nhạt nhòa mà đã được phân định rõ ràng, Mị dám chết để chối từ thực tại đau khổ, bất hạnh.

Ngay khi khát vọng sống bùng lên mạnh mẽ, Mị dám chấp nhận cái chết để từ bỏ cuộc sống đau khổ, thì tiếng sáo lại xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo đã khiến cuộc nổi loạn trong Mị không dừng lại ở tư tưởng mà biến thành hành động. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Nó không chỉ thắp lên ánh sáng vật lí xua tan cái tối tăm của căn phòng, mà con mang ý nghĩa biểu tượng, thắp lên niềm mơ ước, hi vọng về hạnh phúc. Không chỉ vậy, Mị còn búi lại tóc, lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Những hành động này cho thấy sự bùng nổ mạnh mẽ, dữ dội trong tâm lí Mị, gắn bới sự trỗi dậy của khát vọng hạnh phúc. Nhưng chính lúc đấy, A Sử xuất hiện, chặn đứng cuộc vượt thoát của Mị. Nhưng cường quyền lúc này chỉ trói buộc được thể xác của Mị còn khát vọng hạnh phúc, sống đã mạnh liệt đến mức Mị vượt ngục tinh thần. Bởi vậy, dù chân tay không cựa quậy được, nhưng Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị lên những cuộc chơi, đám chơi và đêm đó Mị sống giữa hai cõi mơ và thực: thực cô ý thức được mình không bằng con ngựa nhưng mơ lại giúp Mị vượt thoát khỏi thực tại khổ đau để sống trọn vẹn với quá khứ đẹp đẽ của mình.

Với diễn biến tâm trạng vừa phức tạp, vừa hợp lí, Mị đã thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiền, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ. Mặc dù chưa thành công, tuy khát vọng hạnh phúc chưa thành hiện thực, nhưng cuộc vượt thoát trong đêm tình mùa xuân vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó cho thấy ẩn đằng sau người phụ nữ bị nô lế hóa, tưởng như chai sạn vẫn tiềm tang sức sống mãnh liệt. Đồng thời khát vọng hạnh phúc bị chặn đứng cũng mang giá trị tố cáo, phê phán sâu sắc.

Người lái đò sông Đà

​Nhắc đến Nguyễn Tuân là nhắc đến một con người tài hoa, độc đáo trong trường văn trận bút cũng như những nét tính cách trái ngược nhau. Ông được biết đến như một bậc thầy về ngôn từ bởi sự am hiểu, uyên bác của mình. Nguyễn Tuân thường hướng ngòi bút tới cái đẹp về phương diện thẩm mỹ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là một minh chứng cho phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân. Đây được xem là một tuyệt bút trong sự nghiệp văn chương của ông.

​Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đặt tên cho tác phẩm của mình là “Người lái đò sông Đà” trong khi đang dựng lên cảnh con sông hung bạo, dữ dội nhưng đầy chất trữ tình mà bởi lẽ ông muốn tôn vinh hình ảnh con người lao động với sự tài hoa trong công việc của mình. Ông cũng quan niệm rằng: “Lên Tây Bắc là để đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc sông núi và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững”. Ấy vậy mà hình tượng người lái đò mưu sinh trên sông một cách đầy khâm phục.

​Người lái đò hiện lên với ngoại hình của tuổi bảy mươi “đầu tóc bạc trắng” nhưng thân hình ông vẫn “đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch” cùng cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”. Trên ngực ông còn hiện lên một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân cho đó là “thứ Huân chương lao động trên miền sông nước”. ác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”. Ông lái đò hiện lên là một người giàu trải nghiệm, ông hiểu sông Đà như hiểu chính mình, nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả những luồng nước của những con thác hiểm trở. Hai vẻ đẹp nổi bật của người lái đò chính là vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo đò ngày ngày viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động không ngừng nghỉ. Song còn được coi là một chiến binh dũng cảm trên chiến trường sông nước, ngày ngày chiến đấu giành giật miếng cơm manh áo. Dù công việc vất vả và nguy hiểm như thế nhưng ông vẫn luôn hăng say, vẫn đam mê công việc lao động, đam mê mạo hiểm, thích được thử cảm giác mạnh. Bên cạnh đó, ông còn là người rất dũng cảm, có tâm hồn tươi trẻ, sôi động, bản tính hiếu chiến, đam mê khám phá, chinh phục gian nan thử thách, chẳng bao giờ lùi bước.

​Để làm nổi bật sự tài hoa trong lao động của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã đi sâu vào miêu tả người lái đò trong cảnh vượt thác. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một. Ông xung trận với khí thế nghênh chiến kẻ thù “thạch trận vừa bày xong thì cái thuyền vụt tới”. Trùng vi thứ nhất, sông Đà mai phục “bốn cửa tử, một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đã trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp "mặt nước hò vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình...", "Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt". Nguyễn Tuân đã miêu tả hình ảnh người lái đò điều khiển chiếc thuyền cứ như người nghệ sĩ đang kéo đàn violong. Mặc dù bị đánh những đòn rất hiểm “hai chân ông vẫn kẹp lấy cuống lái” và mặt méo bệch đi vì đau đớn nhưng ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy hiểm của con thủy quái. Để làm nổi bật hình tượng và vẻ đẹp của người lái đò, nhà văn đã sáng tạo một đoạn văn đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò với con sông đầy nham hiểm và xảo quyệt.

​Sang đến trùng vây thứ hai độ khó càng tăng lên, sông Đà đã bố trí nhiều cửa tử hơn để đánh lừa con thuyền bất cứ lúc nào, duy nhất chỉ có cửa sinh lệch ở phía hữu ngạn sông. Bọn tướng đá đứng khiêu khích ngay giữa cửa vào, dựng đứng thành cửa ải. Ông lái đò vẫn không một phút nghỉ tay, bắt đầu vượt thác bằng cách “ghì cương lái, miết một đường chéo về phía cửa đá”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Có được chiến thắng đó là nhờ sự dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống và thứ hai là chiến thắng của tài trí con người, của sự hiểu biết và kinh nghiệm của những người đã nhiều năm gắn bó với nghề sông nước. Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự ngưỡng mộ trước sự dũng cảm của ông lái đò khi đối mặt với nguy hiểm một cách đầy chân thực.

​Bị thua ông đò ở hai lần giao tranh trước, trong trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội. Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác của ông lái thật tuyệt vời. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Từ cuộc chiến đấu ác liệt với thác dữ sông Đà, từ sự bình dị của những người lái đò sau chiến thắng, có thể thấy Nguyễn Tuân đã khẳng định ngợi ca về vẽ đẹp của những người lao động bình thường, âm thầm giản dị nhưng đã và đang làm nên những kỳ tích lớn lao trong cuộc chiến với thiên nhiên hung dữ.

​Qua cảnh vượt thác sông Đà của người lái đò ta thấy được nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của ông lái đò, cô lái đò để đi sâu khắc họa ngoại hình, hành động của nhân vật. Một loạt các hình ảnh nhân hóa, liên tưởng, các kiến thức về điện ảnh, quân sự… được nhà văn vận dụng một cách tài tình, độc đáo để làm nổi bật lên sự tài hoa trong công việc của người lái đò. Nếu như khi xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân sử dụng tri thức nghệ thuật thì xây dựng nhân vật ông lái đò nhà văn lại vận dụng nhiều vốn tri thức đời sống.Nếu như “ Chữ người tử tù” ca ngợi cái đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương, qua đó phủ nhận thực tại phàm tục của xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng thì “Người lái đò sông Đà” lại ca ngợi con sông Đà và người lái đò sông Đà, bày tỏ niềm yêu mến thiết tha thiên nhiên đất nước, niềm tin yêu cuộc sống mới, con người mới.

“Tùy bút Người lái đò sông Đà là vẻ đẹp và sức sống của Tây Bắc, con người Tây Bắc được tái hiện bằng một tấm lòng, một tài năng rất Nguyễn Tuân.” Quả thật như vậy, qua việc khắc họa thành công hình tưởng dũng cảm, tài hoa trong công việc mưu sinh của người lái đò, ta thấy được phần nào sự sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật của ông. Đồng thời đây cũng là sự mến mộ, khâm phục của Nguyễn Tuân đối với những con người lao động trong công cuộc xây dựng đất nước, họ là những người quả cảm, đầy tài hoa, hăng say trong công việc của mình.

Chiếc thuyền ngoài xa

Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập “Bến quê” (1985), sau được đưa vào tuyển tập truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (1987).

– Phùng là một trong những nhân vật chính của tác phẩm. Đây là kiểu nhân vật tư tưởng, có quá trình thức tỉnh, bừng ngộ về nhận thức. Đoạn trích kể về câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại toà án huyện và quá trình suy tư, chiêm nghiệm của nhân vật Phùng. Từ đó thể hiện những nhận thức sâu sắc, đa chiều của người nghệ sĩ về nghệ thuật, cuộc sống, con người.

* Phân tích chi tiết: quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng trong đoạn trích

Ban đầu, ở toà án huyện, khi người đàn bà hàng chài từ chối sự giúp đỡ, cũng như mới nghe một phần câu chuyện, Phùng đã bộc lộ cái nhìn đơn giản, phiến diện, chưa thực sự thấu hiểu hết về cuộc sống, con người. Nhưng sau đó, tiếp tục lắng nghe câu chuyện, lời kể, lí lẽ của chị, Phùng đã bừng ngộ về nhận thức, có cái nhìn đa chiều và những chiêm nghiệm sâu sắc, tiệm cận đến chân lí về nghệ thuật, cuộc đời, con người.

– Về người đàn bà hàng chài:

+ Ban đầu, trong những khoảnh khắc khi chị mới đến toà án huyện, hiện lên trước mắt Phùng là một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, lạc hậu, thiếu hiểu biết. Với bộ điệu, dáng vẻ lúng túng, đầy sợ sệt, người đàn bà không chỉ cầu xin không phải bỏ chồng mà chị còn kể lại hoàn cảnh sống của mình: “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Thoạt đầu mới nghe, Phùng đã thốt lên không thể nào hiểu được. Đó là sự cam chịu đến mức vô lí, mù quáng của người đàn bà hàng chài mà anh không thể giải thích và chấp nhận được. Điệp khúc không thể nào hiểu được lặp lại hai lần cho thấy sự ngạc nhiên cao độ, sự bất bình của Phùng trước những điều vô lí trong hành động của người phụ nữ bất hạnh.

phan-tich-chiec-thuyen-ngoai-xa2

+ Sau đó, Phùng tiếp tục lắng nghe, suy ngẫm về những tâm tư, lí lẽ, lời giải thích của người đàn bà hàng chài: các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông; đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa; đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được; ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.

=> Từ đó, anh đã có sự chuyển biến, bừng ngộ trong nhận thức:

. Phùng hiểu ra nguyên nhân vì sao chị không chịu bỏ chồng, vì sao chị cam chịu, nhẫn nhục khi bị bạo hành. Sự thừa nhận đầy chua chát của Đẩu “Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?” cũng chính là sự thức tỉnh, bừng ngộ của Phùng. Giờ đây, anh đã hiểu ra rằng chị cần một người đàn ông chèo chống khi phong ba bão tố, để làm ăn nuôi nấng đàn con; anh nhận thức được những nghịch lí, bất công trong cuộc đời mà người đàn bà hàng chài phải chấp nhận.

. Phùng phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp, hạt ngọc lấp lánh ẩn sâu trong tâm hồn người đàn bà hàng chài. Đằng sau một người phụ nữ nghèo khổ, thô kệch, cam chịu, nhẫn nhục là vẻ đẹp cao quý của người mẹ giàu đức hi sinh, có tình thương con vô bờ bến; vẻ đẹp của một người vợ vị tha, bao dung, độ lượng; vẻ đẹp của người phụ nữ sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời, có bản lĩnh sống khoẻ khoắn kiên cường và biết chắt chiu từng khoảnh khắc hạnh phúc bình dị đời thường.

– Về lão đàn ông hàng chài:

+ Ban đầu, trong nhận thức của Phùng, hắn là một người chồng vũ phu, tàn bạo. Phùng đã lí giải tính cách, hành động độc ác của lão ta với cái nhìn phiến diện, mang tính thiên kiến giai cấp khi cho rằng đó là sản phẩm, tàn dư của lính nguỵ. Anh đã hỏi một câu như lạc đề: “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không?”. Câu hỏi đó bộc lộ quan điểm, cái nhìn đơn giản, thậm chí chưa đúng đắn về con người và hiện thực cuộc sống vốn dĩ đầy phức tạp.

+ Sau đó, khi nghe lời bênh vực của người đàn bà hàng chài đối với chồng, Phùng có cái nhìn đa chiều, đúng đắn hơn. Anh hiểu ra rằng: nguyên nhân tạo nên tính cách vũ phu, căn nguyên dẫn đến hành động bạo hành vợ là do hoàn cảnh gia đình túng quẫn, nghèo đói triền miên, thuyền chật con đông, vất vả cực nhọc với cuộc sống mưu sinh. Vì vậy, người đàn ông hàng chài không chỉ là thủ phạm tàn ác đáng bị lên án mà còn là một nạn nhân của hoàn cảnh sống đầy bộn bề, ngổn ngang thời hậu chiến.

– Về cuộc sống:

+ Ban đầu

• Phùng chưa thấu hiểu hết cuộc sống mưu sinh vất vả của người dân hàng chài trên biển cả đầy sóng gió. Anh nhận thức rất đơn giản về hiện thực cuộc sống. Ở đây, tác giả đã để cho nhân vật Đẩu hỏi người đàn bà hàng chài: “Vậy sao không lên bờ mà ở”. Sự nhận thức của Đẩu cũng chính là nhận thức của Phùng. Họ cứ nghĩ rằng lên bờ ở cố định một chỗ sẽ thoát khỏi sóng gió biển khơi, thoát khỏi cảnh nghèo khổ, túng quẫn, bấp bênh.

• Phùng và Đẩu tin rằng li hôn là giải pháp tốt nhất giúp người đàn bà hàng chài thoát khỏi khổ đau; tình thương, thiện chí, pháp luật sẽ bảo vệ được chị, sẽ đem lại sự công bằng cho xã hội.

+ Nhưng sau đó

• Khi nghe chị trải lòng “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!”, Phùng đã nhận ra những khó khăn trong quá trình tìm con đường, cách thức để giúp người dân hàng chài thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.

• Phùng cũng hiểu ra li hôn không phải là giải pháp tốt nhất lúc này; tình thương, thiện chí, pháp luật chưa thể giúp người đàn bà hàng chài thoát khỏi bi kịch gia đình. Lời khẩn cầu của chị “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó” một lần nữa đã giúp Phùng nhận thức rõ hơn hiện thực đời sống đầy trái ngang. Cuộc sống vốn dĩ phức tạp, chứa đầy nghịch lí mà con người phải chấp nhận để tồn tại; đằng sau cái tưởng chừng vô lí là cái có lí.

• Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, Phùng cũng nhận ra rằng cuộc sống của chị hay của người dân lao động không chỉ có toàn khổ đau, bất hạnh, éo le, mà cũng có lúc được vui vẻ, hoà thuận. Dẫu có đau khổ, nhọc nhằn nhưng chị vẫn tìm tấy niềm vui, hạnh phúc bình dị để trân trọng, nâng niu. Như vậy, cuộc sống thật phong phú, phức tạp và được tạo nên từ nhiều mảnh ghép, mảng màu khác nhau.

– Về nghệ thuật:

+ Ban đầu, khi con thuyền ở ngoài xa, tức là nghệ thuật và người nghệ sĩ còn cách xa với đời sống thì Phùng mới chỉ thấy được cái hình thức bên ngoài với vẻ đẹp nên thơ, sự tuyệt mĩ của nó. Đó là thứ nghệ thuật thuần tuý, duy mĩ, chưa gắn với đời, chưa vì con người. Nhưng lúc ấy, anh tưởng mình đã khám phá được chân lí của sự toàn thiện. Điều đó cho thấy quan niệm đơn giản, phiến diện của phùng về nghệ thuật.

+ Sau đó, khi con thuyền vào gần bờ, đặc biệt con thuyền qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện, tức là nghệ thuật và người nghệ sĩ đã đến gần với cuộc đời thì lúc đó nghệ thuật mới khám phá được chiều sâu, những góc khuất mảng tối của đời sống con người, nhận thức được bản chất của các hiện tượng và tiệm cận đến những chân lí. Phùng nhận thức sâu sắc hơn về sứ mệnh của nghệ thuật và trách nhiệm, lương tâm của người nghệ sĩ: hãy vì con người, vì cuộc đời…

– Về bản thân và về nhân vật Đẩu:

+ Qua câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện, Phùng đã nhận thức được cái nhìn ban đầu của mình và của Đẩu về cuộc đời, con người, nghệ thuật còn đơn giản, phiến diện, thậm chí chưa đúng đắn. Lúc này anh hiểu ra rằng: họ là những người sành về nghệ thuật, am hiểu về pháp luật, về lí thuyết sách vở song lại ngây thơ, non nớt, thiếu hiểu biết trước sự phức tạp của cuộc sống mưu sinh, trước thực tế đời sống thời hậu chiến, trước con người lao động.

+ Từ đó, Phùng đã bừng ngộ để tiệm cận đến chân lí, để thấu hiểu nhiều hơn, có những chiêm nghiệm sâu sắc hơn, nhận thức rõ về trách nhiệm của bản thân – trách nhiệm của người nghệ sĩ…

* Đặc điểm về nghệ thuật: cốt truyện, kết cấu độc đáo; xây dựng nhân vật Phùng với quá trình chuyển biến, thức tỉnh về nhận thức; sáng tạo tình huống truyện nghịch lí có ý nghĩa nhận thức; các chi tiết tiêu biểu, hình ảnh giàu tính biểu tượng; ngôn ngữ đời thường, dung dị, song giọng điệu trần thuật đầy tính triết lí…

* Đánh giá bài học nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh Châu

– Qua quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã mang đến bài học đúng đắn, sâu sắc, toàn diện, mới mẻ về nhân sinh:

+ Cuộc sống, con người vốn dĩ phong phú, kì diệu song phức tạp và đầy nghịch lí. Vì vậy, hãy có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng; không thể nhìn đơn giản, sơ lược, một chiều mang tính lí tưởng hoá.

+ Nghệ thuật và người nghệ sĩ hãy đến gần với cuộc đời, với con người; người nghệ sĩ không chỉ cần có tài năng mà còn cần có tấm lòng yêu thương, dũng cảm đấu tranh chống lại sự bất công, sẵn sàng bảo vệ những con người bất hạnh và đem lại giá trị tốt đẹp cho cuộc sống… Đó chính là nghệ thuật vị nhân sinh, nghệ thuật chân chính, cái tạo nên giá trị đích thực của một tác phẩm, và khẳng định tầm vóc của một tác giả.

– Bài học về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn đã tạo nên một truyện ngắn xuất sắc, có chiều sâu nhận thức, có giá trị phát hiện bằng những nghịch lí, có quan niệm mới mẻ. Với triết lí nhân sinh đó, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người mở đường tài năng, tinh anh cho văn học Việt Nam thời kì đổi mới; xứng đáng là cây bút bản lĩnh, tài hoa.

3. Kết bài:

- Quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng trong đoạn trích đã mang cho người đọc cái nhìn về cuộc sống đa diện, nhiều chiều hơn.

- Từ đó, người đọc có thể hiểu được bài học nhân sinh sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu mang đến qua tác phẩm.

- Cảm nhận của người viết.

Tuyên ngôn độc lập

1. Hoàn cảnh ra đời

- Ngày 19/08/1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/08/1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội và tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn “Tuyên ngôn Độc lập”.

- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách : nền độc lập vừa mời giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp.

2. Giá trị lịch sử và văn học, mục đích, đối tượng của bản “Tuyên ngôn Độc lập”

- Giá trị lịch sử: Là văn kiện lịch sử vô giá, là lời tuyên bố của một dân tộc đã đứng lên xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, thực dân, thoát khỏi thân phận thuộc địa để hòa nhập vào cộng đồng nhân loại với tư cách là một nước độc lập, dân chủ, tự do.

- Giá trị văn học:

+ Giá trị tư tưởng: “Tuyên ngôn Độc lập” là tác phẩm kết tinh lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc và tinh thần yêu chuộng tự do.

+ Giá trị nghệ thuật: Là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, những bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục, ngôn ngữ gợi cảm, hùng hồn.

- Đối tượng: Nhân dân Việt Nam; Các nước trên thế giới; Bọn đế quốc, thực dân đang lăm le xâm lược nước ta : Mỹ, Pháp.

- Mục đích: Tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam mới; Ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, thực dân.

3. Nội dung

3.1. Phần 1 (từ đầu đến “Không ai chối cãi được”) : Nêu nguyên lí chung

- Người đã trích dẫn bản hai bản “Tuyên ngôn độc lập” (1776) của Mỹ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” (1791) của Pháp. Hai bản Tuyên ngôn này khẳng định quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi con người ở mọi dân tộc.

- Tác giả dùng chính lí lẽ của đối phương đáp trả lại đối phương, nhắc nhở đối phương đang đi ngược lại những gì mà tổ tiên họ để lại.

- Đặt ba cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, trong đó cách mạng Việt Nam cùng một lúc thực hiện nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng Mĩ, Pháp. Sánh vai các nước bé nhỏ với các cường quốc năm châu.

- Từ quyền con người Bác mở rộng thành quyền của dân tộc. Đây là một suy luận hết sức quan trọng vì đối với những nước thuộc địa như nước ta lúc bấy giờ thì trước khi nói đến quyền của con người phải đòi lấy quyền của dân tộc. Dân tộc có độc lập, nhân dân mới có tự do, hạnh phúc. Đó là đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.

- Lập luận vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản TN.

3.2. Phần 2 (từ “Thế mà… phải được độc lập”) : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khảng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

a. Bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ xác đáng, những bằng chứng không ai có thể chối cãi để bác bỏ những luận điệu của thực dân Pháp muốn "hợp pháp hóa" việc chiếm lại nước ta :

+ Pháp kể công "khai hóa", bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội diệt chủng của chúng. Tội nặng nhất là gây ra nạn đói năm giết chết hơn hai triệu đồng bào ta từ Bắc Kì đến Quảng Trị (dẫn chứng)

+ Pháp kể công "bảo hộ", bản tuyên ngôn kể tội hai lần chúng dâng Đông Dương cho Nhật (dẫn chứng)

+ Pháp nhân danh Đồng minh đã chiến thắng phát xít, giành lại Đông Dương, bản tuyên ngôn kể tội chúng phản bội đồng minh: đầu hàng Nhật, khủng bố Cách mạng Việt Nam đánh Nhật cứu nước. Bản tuyên ngôn nói rõ: Dân tộc Việt Nam giành lại độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.

Bằng giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục, đoạn văn đã tố cáo hùng hồn và đanh thép tội ác của thùc dân Pháp. Bằng phương pháp liệt kê, tác giả đã nêu lên hàng loạt tội ác của thực dân Pháp trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và ngoại giao.

b. Từ những cứ liệu lịch sử hiển nhiên đó, bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến những thông điệp quan trọng:

+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước VN.

+ Kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết chống lại âm mưu của thực dân Pháp

+ Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của dân tộc VN.

3.3. Phần 3 (còn lại): Lời tuyên ngôn và tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập của toàn dân tộc

- Tuyên bố về quyền độc lập của dân tộc

- Tuyên bố về sự thật là nước Việt Nam đã giành được độc lập.

- Tuyên bố về ý chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc bằng mọi giá.

Những lời tuyên ngôn này được trình bày lôgic, chặt chẽ, cái trước là tiền đề của cái sau.

4. Nghệ thuật

- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục

- Ngôn ngữ chính xác, trong sáng, gợi cảm.

- Giọng điệu linh hoạt.

5. Chủ đề

Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới quyền được tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, nền độc lập, tự do mà nhân dân ta vừa giành được và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của toàn dân tộc.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt

Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nổi tiếng với những tác phẩm có nội dung giàu tính hiện thực, có tính đả kích sâu sắc và mang đậm giá trị nhân văn. Một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của ông phải nhắc đến đó chính là tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt. Trong tác phẩm này những vấn đề mấu chốt và tình huống truyện đều tập trung xoay quanh nhân vật Trương Ba, một con người phải sống nhờ ở đậu trong thân xác của người khác.

Trước khi đột ngột qua đời, Trương Ba là một người đàn ông hiền lành đức độ trong gia đình, ông là một hình mẫu mực thước cho tất cả các thành viên noi theo. Chính vì vậy ông rất được vợ con yêu thương, con cháu kính trọng. Ông là người không những nho nhã, thanh lịch lại rất thông minh và hiểu biết, nước cờ ông đánh họa chăng chỉ có Đế Thích mới giải vây được. Có thể thấy được đây là con người tri thức, nền nã vừa đẹp ở tâm hồn nhân cách lại có những hành vi ứng xử văn minh.

Tuy nhiên, chỉ vì một sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khi vội đi chơi mà khiến cho Trương Ba phải chết oan. Cái chết của Trương Ba đột ngột và vô lý đến nỗi khi vợ Trương Ba gặp Đế Thích để đòi lại sự công bằng Đế Thích cũng phải bối rối. Công bằng ấy được sửa chữa, vá víu bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào trong thân xác của hàng thịt. Thế nhưng đây cũng là lúc bắt đầu bi kịch của Trương Ba.

Trương Ba dần trở nên thô thiển hơn, có những hành động lỗ mãng, không còn giống với con người của ông trước kia. Ông trở nên tham ăn tục uống, ăn uống phàm phu tục tử, nói năng thì bỗ bã, thô thiển, hành vi thì lố bịch. Trương Ba đã làm những việc trước đây ông chưa từng làm: tát con trai, làm “gãy tiệt cái chồi non” của cây cam, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm, đã “làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị. Không chỉ vậy, trong một lần vợ hàng thịt nằng nặc đòi chồng ở lại với mình, Trương Ba đã suýt chút nữa mà nghe theo.

Sự thay đổi của Trương Ba khiến cho chính gia đình ông cũng không chấp nhận được, vợ Trương Ba chấp nhận bỏ đi để ông về sống với vợ hàng thịt. Cái Gái cháu ông thì không nhận ông, cô con dâu ngoan hiền hiểu chuyện nhất cuối cùng cũng trách cứ cha mình. Trương Ba đau khổ lắm. Không phải ông không biết những sự thay đổi đã diễn ra với mình chỉ là ông không thể làm được gì để thay đổi thực tại. Hoàn cảnh của ông đích thực là lực bất tòng tâm. Dù linh hồn của ông muốn nhưng thân xác không chịu nghe theo thì ông cũng không thể điều khiển được. Huống hồ việc ban ngày ở trong thân xác hàng thịt lâu dần khiến cho ông bị tha hóa, trở nên thô thiển, cục mịch, ngày càng giống với con người hàng thịt.

Trương Ba vô cùng đau khổ và day dứt về sự thật này nên đã gặp Đế Thích và trình bày nỗi lòng của bản thân. Có thể thấy ông là một người rất có nhân cách, lòng tự trọng. Ông đã thẳng thừng nói với Đế Thích chỉ quan tâm cho người ta sống còn sống thế nào thì Đế Thích không quan tâm. Những lời phê phán của Trương Ba rất gay gắt nhưng cũng vô cùng chính xác về Đế Thích và cách làm của ông. Trương Ba cuối cùng đau khổ lựa chọn cái chết còn hơn chấp nhận hoán đổi linh hồn mình vào một thể xác mới. Đây là một sự lựa chọn cao cả và thể hiện đúng tính cách con người ông. Ông không thể chấp nhận sự giả dối, hoán đổi, không thể sống mà trong một đằng ngoài một nẻo. Dù cho ông có được đổi sang một thân xác nào đi nữa thì đó cũng là thân xác đi mượn và rồi ông sẽ lại gặp rất nhiều rắc rối khi không được là chính mình. Cách lựa chọn này đã đưa Trương Ba trở về là chính ông dù điều đó đồng nghĩa với việc ông phải vĩnh viễn rời xa vợ con của mình.

Bi kịch của Trương Ba đã nói lên một vấn đề đó là sống nương nhờ trong thân xác của người khác. Con người phải sống là chính mình, nhất quán, đồng điệu giữa tâm hồn và thể xác không thể có chuyện linh hồn người này nhưng lại sống trong thân xác của người khác.

Cách lựa chọn giải quyết vấn đề cũng cho thấy được nhân cách cao đẹp trong con người Trương Ba, ông đã lựa chọn cái chết để được làm chính mình còn hơn cố gắng níu giữ sự sống trong khi mình dần bị tha hóa, biến đổi. Cuối cùng thì Trương Ba vẫn trở về là người chồng yêu thương vợ con, là người cha mẫu mực, người ông đáng kính trọng của tất cả con cháu trong nhà.

Vợ nhặt

Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.

Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.

Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.

Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.

Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.

Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn. Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không có khả năng để lấy được vợ.

Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.

Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.

Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuế mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.

Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.

Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoại hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.

Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ. Bà dặn dò hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.

Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.

Ai đã đặt tên cho dòng sông

Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dòng sông Hương chưa? Sông Hương chính là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lại mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với phong cảnh hữu tình đó là dòng sông quê hương qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn, nhà khảo cứu văn học, văn hóa. Ông là một nhà văn chiến sĩ, có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về thể kí đồng thời là người đã có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của văn học. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu năm 1986.

Tác phẩm đã làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là sự uyên bác, giàu chất thơ và giàu trí tưởng tượng. Sông Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của trang viết trong sự thể hiện cái tôi của nhà văn. Sông Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế. Chính vì vậy, sông Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ địa lí đến lịch sử và qua góc nhìn văn hóa, thơ ca.

Ở góc độ địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó tựa như “một bản trường ca rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội”. Sông Hương khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc dưới đáy vực sâu”.

Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại “lúc dịu dàng, say đắm giữa những rặng dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng biện pháp nhân hóa để bạn đọc cảm nhận được sông Hương như một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại” với “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” làm cho dòng sông nổi bật ở vẻ đẹp cá tính, hùng vĩ.

Nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dòng sông. Tác giả còn sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sông là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di gan”, là “người mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sông trong liên tưởng với một cô gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho gương mặt sông Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều phương diện khác nhau.

Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế, sông Hương “trở thành người tình dịu dàng và chung thủy với cố đô”. Sông Hương là người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Sông đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính của mình. Sông Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa, đã thay đổi hình dáng “mềm như tấm lụa”, màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để dòng chảy trôi đi thật chậm.

Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi được đặt trong mối quan hệ với vẻ đẹp của người con gái Di gan. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân để chuyển dòng liên tục. Dòng sông có ý thức kiếm tìm về thành phố, “vui tươi hẳn lên” khi tìm đúng đường về, sông Hương còn là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ru mọi người vào giấc ngủ yên bình.

Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương như đã tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. “Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Bắc Đông Nam, tự uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến”, dòng sông mềm mại hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế, của con người Huế. Sông Hương đã đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh “lập lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn Mô tê xưa cũ”.

Sông Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của các nhà văn, nó có chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô. Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như một điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với cái nhìn đắm say của trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn nhận ở nhiều phương diện dưới các góc độ khác nhau.

Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó lẳng lơ, kín đáo.

Sông Hương là dòng sông lịch sử. Dòng sông được khơi gợi trong sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang. Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại. Dòng sông ấy còn vẻ vang soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đã chứng kiến Cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển. Sông Hương đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử, mang đậm dấu ấn thời gian.

Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sông Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa và thơ ca. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương.

Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận.

Từ âm thanh của cuộc sống, tác giả đã nói đến tiếng nước vỗ vào mạn thuyền hình thành lên những điệu hò dân gian. Nhiều lần, nhà văn đã liên tưởng đến truyện Kiều của Nguyễn Du đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, truyện Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình để hình thành nên cái nôi của văn chương, văn hóa.

Từ góc độ thơ ca, sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của những người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm dậy lên những vần thơ biếc xanh của Tản Đà: “Dòng sông trắng Lá cây xanh”. Hình ảnh này với câu chữ của tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về một sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.

Đây là minh chứng thời gian của những tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân. Nhà văn cũng làm sống dậy, sông Hương hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát. Sông Hương quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.

Điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách so sánh, liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà văn giàu chất thơ.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế qua đó đã thể hiện cái “tôi” cá nhân của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái “tôi” tài hoa, uyên bác. Sông Hương được miêu tả dưới nhiều góc độ khác nhau, sông Hương là dòng sông của âm nhạc, của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, về vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cái tôi uyên bác được thể hiện ở sự vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa vẻ đẹp của dòng sông.

Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng. Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như “người mẹ phù sa” bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa từ bao đời nay. Sông Hương còn được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu. Thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý thức đi tìm người tình mong đợi, khi chảy giữa thành phố Huế, sông Hương mềm mại hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.

Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như “người con gái dùng dằng chia tay người yêu”, thể hiện một nỗi niềm vương vấn một chút lẳng lơ kín đáo. Cái “tôi” của tác giả là một cái “tôi” nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc hẳn, nhà văn phải yêu quê hương lắm thì mới có thể lột tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc như vậy. Nhà thơ đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo dõi toàn bộ thủy trình của dòng sông với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan.

Nhà văn đã quan sát tỉ mỉ dòng sông từ trước khi vào thành phố rồi đến khi đổ ra bể dòng sông đã có những thay đổi ra sao. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật là một cái “tôi” đa phong cách, mang dấu ấn riêng biệt và giàu chất thơ. Nhà văn đã phát hiện và trân trọng vẻ đẹp của dòng sông và có những so sánh táo bạo với hình ảnh cô gái Di gan, người mẹ phù sa, người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.

Nhà văn đã liên tưởng tới những nhà thơ khác cùng viết về sông Hương như Nguyễn Du, Tố Hữu, … nhà văn nhớ đến Kiều và muốn được đắm chìm trong những giai điệu ca Huế trên sông Hương. Tất cả những điều đó đã tạo nên một cái “tôi” riêng biệt mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Dưới cái nhìn tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí lịch sử đến văn hóa, thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ khiến cho con sông từ vật vô tri vô giác nay bỗng trở nên có hồn , có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại mạnh mẽ, quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.

Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê hương, yêu con người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành công của tác giả trên con đường văn học ở thể bút kí đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá nhân riêng biệt, trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. Phải chăng vì thế mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:

“Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều”

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.

Xem thêm: Ôn thi tốt nghiệp THPT: Những ghi chú về các tác phẩm văn xuôi 12 nên thuộc lòng

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận