Chuyện về Quý phi có tài trị nước an dân, can đảm hy sinh tính mạng làm vợ "hà bá" ở tuổi 20
Vị Quý phi này nổi tiếng với bản "Kê minh thập sách" - 10 kế trị nước dâng vua Trần Duệ Tông. Nhưng tiếc rằng, vua không làm theo để rồi nhận cái kết bi thảm.
Quý phi thông minh có tài trị quốc, an dân
Quý phi Bích Châu tên thật là Nguyễn Thị Bích Châu (1356 – 1377), quê ở xã Bảo Lộc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Bà là con gái quan đại thần Nguyễn Tướng Công. Vì sinh con muộn nên ngay từ lúc mới lọt lòng, bà đã được cha mẹ nâng niu đặt tên là Bích Châu, tự là Bích Lưu với ngụ ý, đây là tài sản vô giá, quý như châu ngọc lưu ly ở đời.
Theo "Truyền kỳ tân phả" của Đoàn Thị Điểm, Bích Châu không chỉ xinh đẹp mà còn thông tuệ, hiểu biết văn chương, âm nhạc. Chính vì thế mà vào năm 16 tuổi (năm 1373), bà được vua Trần Duệ Tông tuyển vào cung, phong là Quý phi, hiệu là Phù Dung. Tên hiệu Phù Dung được vua Duệ Tông đặt trong dịp tết Trung thu với nhiều đèn lồng, đủ màu sắc. Khi ấy, vua Duệ Tông cao hứng ra vế đối: "Trời thu gác tía treo đèn bạc, quế đỏ trong trăng". Khi văn võ đang suy nghĩ thì Bích Châu đã ứng đối: "Sắc xuân đài trang mở gương báu, phù dung đáy nước". Nhà vua khen hay và tặng cho đôi "ngọc long kim nhĩ" (hoa tai vàng cẩn ngọc hình rồng nổi) và đặt biệt hiệu cho bà là Phù Dung.
Không chỉ thông minh xinh đẹp, Quý phi Bích Châu còn là người có tài trị nước an dân. Bà đã giúp vua Duệ Tông trong các kế sách để đem lại tình hình ổn định, phát triển cho đất nước.
Quý phi Bích Châu chính là người thảo ra bản "Kê minh thập sách" - 10 kế sách trị nước dâng vua. Quý phi đã dùng chữ "Kê minh" ngụ ý mượn tiếng gà gáy sáng để thức tỉnh nhà vua. "Kê minh thập sách" của Quý phi Bích Châu ngắn gọn, súc tích nhưng bao quát hầu hết các vấn đề quốc gia đại sự.
Sống Đẹp xin trích dẫn nguyên văn "Kê minh thập sách" của Quý phi Bích Châu:
"Trộm nghĩ, dời củi nâng mái bếp gây nền trị từ khi chưa loạn; dùng dâu ràng cửa tổ, được ở yên cần lo tính lúc nguy. Vì dân tình dễ đắm đuối sự yên vui; mà thế vận khó giữ luôn thời bình trị. Cho nên dâng lời răng chớ chơi bời lười nhác, Cao Dao trước hãy ngợi khen, ở vào thời không máu chảy gươm khua, Giả Nghị vẫn tâu lời than thở. Chỉ vì yêu vua mà ngăn trước, không phải khác chúng để khoe tài. Tiện thiếp tên gọi Bích Châu, lúc nhỏ vốn nhà nghèo khó, lớn lên được tuyển vào cung, ân sủng chứa chan, thương yêu đằm thắm. Vả xiêm áo vua Ngu, dám đâu sánh với người nam tử; rút trâm cài Khương hậu, tiến lời can đứng trước đình thần. Mạo muội tỏ bày mười điều vụng nghĩ:
Điều một: Bền gốc nước, trừ kẻ bạo thì dân chúng được yên.
Điều hai: Giữ nếp xưa, phiền nhiễu nên bỏ thì triều cương không rối.
Điều ba: Ngăn kẻ lạm quyền để trừ mọt nước.
Điều bốn: Loại bọn quan tham nhũng để bớt vơ vét của dân.
Điều năm: Mở lối nho phong để ngọn lửa đóm được soi cùng mặt trời mặt trăng.
Điều sáu: Tìm những lời trực gián để đường ngôn luận được rộng mở như cửa thành.
Điều bảy: Rèn luyện binh sĩ cần lất hạng có dũng lực hơn là hạng vóc vạc lớn.
Điều tám: Chọn tướng trước nên lựa người thao lược sau mới đến là bậc thế gia.
Điều chín: Khí giới cốt tinh nhuệ hơn là lòe loẹt.
Điều mười: Tập trận pháp cần chỉnh tề không cần múa nhảy.
Xét mấy điều ấy rất thiết thực. Dám dâng lên tấm lòng trung thực, mong nhận cho lời nói quê mùa. Bỏ điều dở mà làm điều hay, xin bệ hạ lượng nghĩ. Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!".
Sau khi đọc sớ của Quý phi, vua Duệ Tông phải thốt lên: "Không ngờ một người đàn bà lại thông tuệ đến thế! Thật là một Từ phi (vợ vua Đường Thái Tông) ở trong cung của Trẫm vậy!".
Kế sách của Quý phi cho thấy bà là người hiểu rõ thời cuộc, thấy được những hạn chế của vua Duệ Tông trong việc trị quốc, an dân cũng như trong việc xuất quân đánh Chiêm Thành. Thế nhưng, vua Duệ Tông lại không nhận thấy được điều đó mà vội vã mang quân chinh phạt Chiêm Thành.
Năm Đinh Tỵ (1377), vua Duệ Tông điều 12 vạn binh đi đánh Chiêm Thành. Quý phi Bích Châu dâng biểu can ngăn, phân tích lợi hại đủ đường nhưng vua không nghe, tự mình thân chinh. Thấy vậy, Quý phi viết một bài biểu lời lẽ tha thiết, khuyên can vua nghĩ lại. Nhưng cuối cùng bị xếp xó. Quá buồn rầu, bà xin phép vua cho đi theo. Bà là 1 trong mấy chục phi tần, cung nữ đi theo ngự giá/
Quân Trần xuất binh ngày ấy cờ xí rợp trời, chiêng trống dậy đất, binh sĩ gươm giáo sáng loáng, hùng khí ngất trời. Nhưng khi đoàn thuyền chiến vừa đến cửa bể Kỳ Hoa (nay là Kỳ Lợi, Kỳ Anh, Hà Tĩnh) trời bỗng nổi cuồng phong. Đoàn binh đành neo tạm ngay lại đấy. Bởi ngay sát bờ đã là dãy vực thẳm đầy đá nhọn, ra càng xa thì vực càng sâu, lòng biển lởm chởm hàng khối đá ngầm.
Đoàn thuyền phải chịu thương tổn khá nhiều mới ràng nổi dây neo. Nhưng cơn dông vẫn dai dẳng và càng lúc càng dữ dội. Quân lính lớp chết, lớp kêu la chới với. Số còn sống ai nấy đều kinh hãi nhưng lòng vua vẫn quyết tâm đợi bão tan tiến binh đánh Chiêm Thành.
Quý phi Bích Châu hy sinh, làm vợ "hà bá" ở tuổi 20
Vào đêm trời mưa bão ở bể Kỳ Hoa, vua Duệ Tông nằm mộng thấy một vị thần xưng là Nam Minh đô đốc, thủ hạ của Quảng Lợi đại vương muốn xin vua ban cho 1 người thiếp. Nếu được như ý nguyện thì làm cho sóng yên, trời lặng để thuyền đi qua.
Vua sợ hãi, vội đòi các quan tướng và phi tần vào ngự tẩm, kể lại giấc mộng. Sau khi các quan tướng chưa biết ứng đối thế nào thì Bích Châu từ sau trướng bước ra, nói: "Việc linh ứng của thần nhân như vậy là rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Tiện thiếp tình nguyện liều tấm thân bèo bọt này để chu toàn cho đoàn ngự giá và quan quân".
Vua Duệ Tông bàng hoàng chưa kịp ngăn lại thì Quý phi Bích Châu đã quay ra thuyền lệnh: "... Các quan mau mau sửa soạn lễ vật cúng thần biển, kính báo thời khắc thiếp tôi được nhà vua cử làm sứ giả đi gặp thần biển xin sóng lặng bể yên phù trợ cho vua quan, quân lính nhà Trần được chiến thắng dịp này, đem bình an về cho đất nước".
Không ai có thể ngờ được, một mỹ nhân tài sắc vẹn toàn, mới kề cận nhà vua được 4 năm và được Duệ Tông hết mực sủng ái lại dám lìa bỏ tất cả, can đảm hy sinh tính mạng.
Khi vua quan chưa kịp hoàn hồn thì Quý phi đã trâm thoa, xiêm gấm, hài thêu lộng lẫy bước ra. Trước mắt mọi người lúc này, vẻ đẹp của bà Bích Châu đang tỏa ánh hào quang như một vị thiên thần. Một vị ái phi mới 20 tuổi của nhà vua, giai nhân tuyệt sắc ấy đã đang đứng ở vị thế là một nữ dũng tướng của quan quân triều Trần Duệ Tông. Vua Duệ Tông kính cẩn đưa tiễn ái phi cũng cảm ra đi. Ngài truy tặng cho bà làm Thần phi.
Mặc sóng đánh tới tấp, nước tràn vào, bà Bích Châu vẫn tươi tắn quỳ lạy nhà vua, cầu chúc nhà vua bình tĩnh, đại thắng, rồi quay về hướng Bắc lạy cha mẹ, vái chào từ biệt hàng quan quân, trang nghiêm đến ngồi gọn vào trong lòng chiếc thuyền thoi nhỏ có cắm đại hoàng kỳ. Chiếc thuyền được quan quân thòng dây thả từ từ xuống biển, giữa những cơn sóng thần liên tiếp quật nước lên cao. Bà Bích Châu bình tĩnh nắm dây nhắm mắt.
Vừa đụng nước, chiếc thuyền lập tức quay vòng ngụp lặn với sóng cả rồi chìm lỉm mất hút, mang theo một trái tim rực rỡ ánh châu ngọc lưu ly nhập cõi thuỷ tận.
Hai ngày sau bão ngớt, thi thể của bà Bích Châu nổi trên mặt biển, vẫn uy nghi trong bộ triều phục, nhấp nhô theo làn sóng bạc dần trôi vào bờ. Bà được ngư dân vớt lên rước đi an táng tại làng Kỳ Hoa.
Đó cũng là lúc đoàn thuyền của vua Duệ Tông đã lướt tiến khá xa, sẵn sàng lao vào trận chiến đầy cam go. Thế nhưng do không nghe lời can gián của Bích Châu mà cố tiến sâu vào động Y Mang, đất Chiêm Thành nên bị trúng mưu của giặc Bà Ma, một tướng của Chế Bồng Nga, toàn quân tan rã. Vua tử trận ở Đồ Bàn (tức Quy Nhơn ngày nay) vào ngày 23/1 năm Đinh Tỵ (1377).
Từ đó, hàng năm, vào 12/2 âm lịch là ngày giỗ của quý phi Bích Châu – Chế Thắng Phu Nhân.
Xem thêm: Đại tướng Nguyễn Kim: Bề tôi tận trung, anh hùng nơi sa trường chết yểu vì 1 miếng dưa hấu
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận