Ký ức của Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà về những thăng trầm triều Nguyễn ở thế kỷ XX
Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà là con gái của Trưởng Công chúa Mỹ Lương - người phụ nữ có tấm lòng nhân đạo, sáng lập lập hội Lạc Thiện cứu tế người nghèo khó.
Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà là ai?
Sở dĩ bà Nguyễn Thị Cẩm Hà có tên gọi Mệ Bông là vì theo tục xưa của nhà Nguyễn, những con cháu trong hoàng tộc phải được đặt tên theo nguyên tắc lót chữ Mệ đi kèm với tên nghe bình dân một chút. Hoàng tử, công tử, những người liên quan đến hoàng gia thì càng phải áp dụng nguyên tắc này vì theo suy nghĩ của người Huế xưa: Quỷ thần rất hay bắt trẻ em. Vậy nên, người Huế thường đtặ tên con có chữ Mệ và từ đó đã trở thành 1 điều gì đó rất quen thuộc với người Huế.
Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà được nhận xét là một người phụ nữ rất xinh đẹp. Bà xuất thân trong dòng dõi hoàng gia, là con gái của Trưởng Công chúa triều Nguyễn. Từ nhỏ, Mệ Bông đã được học tất cả các quy tắc trong cung. Mệ Bông có tài đàn tranh vô cùng xuất chúng. Nhà báo Mỹ W. Robert Moore đã may mắn được tận mắt chứng kiến tài nghệ của bà khi để đón tiếp ông tại phủ riêng của Trưởng công chúa thì Mệ Bông, vị lão gia sư khiếm thị và nhạc công khác cùng hợp tấu, xung quanh sẽ có những ca công trẻ biểu diễn những ca khúc Huế.
Thân mẫu của Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà là Nguyễn Phúc Tốn Tùy (cps âm đọc là Tôn Thụy, có âm đọc là Tôn Tụy), sinh năm Tự Đức thứ 25 (tức 1872). Tốn Tùy là con gái vua Dục Đức, là chị vua Thành Thái.
Bà được phong làm Mỹ Lương Trưởng Công chúa và thường được gọi là Bà Chúa Nhất vào năm Thành Thái thứ 9, tức năm 1897. Sau đó, để giúp không khí nhộn nhịp, bà đã thành lập và huấn luyện đội ca vũ tuồng cung đình Huế tại phủ của mình. Chính điều này đã tạo nên điểm nổi bật đối với nghệ thuật của cung đình Huế vào khoảng thế kỷ XX.
Trưởng Công chúa đã cho đội ca múa biểu diễn trong hoàng cung từ đời vua Thành Thái đến đời vua Duy Tân và Bảo Đại. Bên cạnh đó, bà còn góp công lớn trong việc giúp đỡ người già và cô nhi ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ khi đã đứng ra thành lập hội Lạc Thiên. Công chúa Mỹ Lương trải qua 2 đời chồng, người chồng thứ 2 của bà là Thượng thư Nguyễn Kế, sinh ra một người con đặt tên là Nguyễn Thị Cẩm Hà - thường gọi là Mệ Bông.
Mệ Bông được nhận xét là người có nụ cười hiền từ. Người ta nói Mệ Bông khó, thật ra cũng dễ hiểu, vì sinh ra trong dòng dõi hoàng gia, phải học bao quy tắc, cộng thêm sự thăng trầm của lịch sử. Khi nhà báo phỏng vấn bà vào tháng 9/2001 thì bà đã là một bà lão 90 tuổi, người nhà của bà cũng khá e ngại khi nhận được lời đề nghị phỏng vấn vì Mệ Bông vừa trải qua 1 trận tai biến mạch máu não. Mệ bị bại liệt khoảng 2 năm và khả năng nói chuyện cũng không còn lưu loát như trước. Nhưng khi được phỏng vấn, nhà báo thấy bà vẫn là một người hay cười, nụ cười vô cùng hiền từ.
Ký ức về triều Nguyễn ở thế kỷ XX của Mệ Bông
Những chuyện về triều Nguyễn ở thế kỷ XX vẫn in sâu trong tiềm thức của Mệ Bông, chỉ đợi có người hỏi để kể ra. Bà nhớ, ngay khi các hoàng tử và công chúa được sách phòng thì sẽ được gọi là Đức Bà, Đức Ông. Thời đó, trong phủ của Đức Bà có đến 50 người bao gồm cả giúp việc, tài tử và đào hát.
Như đã nói ở trên, vị lão sư khiếm thị chơi nhạc khi đón tiếp nhà báo Mỹ chính là Thầy Cò. Ông có nhiệm vụ huấn luyện các nhạc công về đàn nguyệt, đàn tranh và đàn tỳ bà. Trong đội ca vũ tuồng của phủ Đức Bà thì ông Loan là người chơi trống hay nhất và Mụ Liệu là người ca giỏi nhất. Bên cạnh đó, Yến, Quy, Ninh, Thành... cũng được huấn luyện hằng ngày trong phủ Đức Bà. Khi nhắc đến đội tuồng năm xưa, Mệ Bông đã kể vậy.
Cũng theo Mệ Bông, bà thích điệu múa Nữ Tướng nhất. Bởi đây chính là điệu múa mà vua Thành Thái ưa thích vì nó thể hiện sự tuyệt vọng của vua trong việc không thể cứu đất nước khỏi sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp. Trong điệu múa này, người ta vấn khăn lên đầu, bên trong sẽ mặc áo bào, bên ngoài khoác áo lá tua (áo mã tiên) và mặc quần chít ba.
Mệ Bông xuất thân trong gia đình hoàng tộc, lại được ảnh hưởng âm nhạc từ mẫu thân nên giỏi cả đàn tranh và ca Huế. Song điều này bà cũng chỉ tự học để biết vì công việc chính của bà ở trong cung đình Huế.
Thời đó, những lễ nghi, tiếp khách sẽ được tổ mẫu của vua Bảo Đại là bà Dương Thị Thục, tựa Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu, tức Đức Tiên Cung Thái Hoàng Thái hậu theo dõi. Còn bà Nguyễn Hữu Thị Nhàn, tựa Phụ Thiên Thuần Hoàng Hậu, tức Đức Thánh Cung thì bị thấp khớp nặng nên thường xuyên nằm trong điện nghỉ ngơi. Vì thế từ bé Mệ Bông đã phải thường xuyên vào trong cung để đọc sách và hầu chuyện với bà Đức Thánh Cung. Lúc nhỏ Mệ Bông khá thân thiết với Hoàng Thái тử Vĩnh Thụy nên bà Đức Thánh Cung khá thương yêu Mệ Bông. Bà Mệ Bông nhớ lại: “Đức Thánh Cung nuông tôi lắm. Mỗi lần tôi vào cung Ngài cho tôi ăn đủ thứ".
Trong cung đình Huế, Mệ Bông rất nổi tiếng và được biết đến với khả năng quấn khăn vành dây. Khăn của các bà trong cung được làm bằng nhiễu cát mỏng, dài khoảng 10 đến 20 thước tây. Chiều rộng của khăn tầm khoảng 30 đến 45 phân tây. Sau khi xếp xong sẽ rộng khoảng 3 phân tây. Dựa vào tước phẩm của các bà sẽ quyết định độ dài của khăn, người nào có tước phẩm càng cao thì khăn vấn càng dài. Khi quấn khăn, người ta sẽ vấn khăn vào tóc và chít vào quanh đầu. Sau đó khăn vành dây sẽ được cuốn tiếp theo và phủ ra ngoài khăn vấn.
Việc vấn khăn lên đầu nghi thức vô cùng quan trọng, ngoại trừ lễ đại triều giữ Vua và các triều thần ra thì đối với các lễ nghi khác, những người trong hoàng tộc cũng như các mệnh phụ phu nhân bắt buộc phải vấn khăn lên đầu.
Phải nói rằng, việc vấn khăn trên đầu là nét đẹp của phụ nữ trong cung đình Huế xưa nhưng điều đó cũng chính là nỗi khổ của các bà. Còn về Mệ Bông, bà luôn hãnh diện vì tài nghệ vẫn khăn của mình. Bà vấn khăn nhanh, đẹp.
Mệ Bông từng kể, Nam Phương Hoàng hậu thường xuyên mặc âu phục nhưng khi vấn triều phục vào các dịp lễ quan trọng thì sẽ mời Mệ vào vấn khăn cho. Vì tước phẩm Hoàng hậu là cao quý nên khăn của bà rất dài. Mệ Bông còn cho biết, các hoàng thái hậu, phi tần và hậu trong cung được chít khăn vấn vàng bên trong khăn vành dài. Còn các công chúa, mệnh phụ thì dùng khăn vành dây màu lam. Thuở đó tóc của Nam Phương Hoàng hậu được uốn theo kiểu phương Tây nên khá ngắn nên Mệ Bông phải cuộn khăn vấn giả trong khăn vành cho Nam Phương Hoàng hậu.
Ngoài tài vấn khăn, Mệ Bông còn có khả năng nấu nướng thuộc hàng thượng phẩm. Vào năm 1953, Cựu Hoàng Thành Thái về thăm Huế, khi ở lại phủ CHúa, vị Cựu Hoàng này đã chỉ đích danh Mệ Bông nấu ăn cho mình. Bởi vì khi bị Pháp lưu đày ở đảo Reunion, Châu Phi, ông đã được nghe tài nghệ nấu các món Huế của cháu gái mình.
Thời xưa, các buổi yến tiệc phải bày nhiều món ăn để tiếp đãi thượng khác nước ngoài và các quan trong triều. Đại yến thì nấu khoảng 60 món, trung yến là 40 món và tiểu yến là 30 món. Còn đối với các món ăn hàng ngày của của vua thì đơn giản hơn, quy định không được vượt quá 2.5 quan tiền. Mệ Bông còn cho tiết lộ rằng những thực phẩm quý hiếm từ ngoại quốc tặng thì vua sẽ không đụng đến vì sợ bị đầu độc. Hầu hết những thực phẩm quý hiếm đó sẽ được đem tặng cho quan lại hoặc cung nữ, thái giám.
Từ những năm 1884 - 1885, vua Hàm Nghi không thích những món ăn được làm từ mắm vì nó có mùi. Nhưng đến năm 1889 – 1907, do vua Thành Thái có một thời gian sinh sống như thường dân nên ông hiểu rõ và khá thích món mắm dân dã này. Còn về phần vua Bảo Đại, ông ấy rất thích ăn mắm tôm chua của Mệ Bông làm mặc dù ông cũng là người không thích các món mắm cho lắm.
Sở dĩ Mệ Bông nấu ăn ngon là vì có những cách nấu riêng đối với các món ăn. Ví dụ, khi làm món mắm tôm chua, ngoài những gia vị thường có như riềng, tỏi, đường, ớt thì bà sẽ sử dụng nước mắm thay cho muối. Hoặc khi nấu ăn trong cung, bà thay nước mắm bằng xì dầu.
Sau khi nhà Nguyễn không còn vào năm 1945 thì cuộc sống sung túc ở phủ Bà Chúa Nhất vẫn còn được tồn tại thêm một chút, chỉ có điều bổng lộc không còn nữa. Tuy nhiên điều đó cũng không tồn tại được lâu vì các Đức Bà, Đức Ông đã dấn thân vào con đường cờ bạc. Đối với Mệ Bông, bà vẫn thích thời gian tồn tại của triều nhà Nguyễn vì nơi đây đã từng có rất nhiều kỷ niệm với bà. Còn sau khi triều đại nhà Nguyễn kết thúc, mọi chuyện đã thay đổi quá nhiều, vốn dĩ cuộc sống ấm êm trong phủ sẽ còn tồn tại lâu dài nhưng bài bạc đã khiến điều đó lụi tàn. Vậy nên sau này bà Mệ Bông khuyên mọi người đừng nên đánh bạc.
Vào năm 1948, chồng Mệ Bông bị chính trị cướp đi, bà cũng không tái giá mà ở vậy nuôi đứa con gái duy nhất của hai vợ chồng. Mệ còn nói, bà Từ Cung Đức Hoàng thái hậu nghiêm lắm, nhưng Mệ hay vào chơi với bà. Khi nào Hoàng thái hậu vấn khăn hay nấu nướng thì Mệ sẵn sàng giúp đỡ.
Sau khi phu quân mất, bà đau khổ. Những tưởng mọi chuyện dừng lại ở đó, bà sẽ được sống sung túc bên đứa con gái thân yêu. Thế nhưng một biến cố đã xảy ra vào năm 1954, con gái của bà đột nhiên biến mất vào năm 18 tuổi. Bà vào tận Sài Gòn để tìm con nhưng không thấy đứa con gái yêu quý đâu, bà dường như thất vọng và trở nên điên loạn. May sao hai năm sau, đứa con gái của bà gửi thư về báo bình an và nói rằng do cô ra Hà Nội để tìm cha nhưng không tìm thấy cha và bị kẹt lại ở Hà Nội.
Khi triều nhà Nguyễn suy tàn, Mệ Bông phải vào Sài Gòn để chăm nom các buổi tiệc trong dinh Độc Lập. Tuy rằng Mệ không phải nấu mà chỉ lên chương trình và chỉ đạo các đầu bếp nấu nướng. Nhưng chắc hẳn Mệ vẫn nhớ những giây phút nấu ăn ở cung đình Huế khi xưa. Song từ khi vào Sài Gòn, bà không trở lại Huế thêm lần nào nữa.
Sau 1975, đất nước thống nhất, con gái bà vào Sài Gòn để tìm bà. Lúc này bà vui mừng vô cùng, bà trở lại với cuộc sống bình yên bên con cháu. Lần vấn khăn cuối cùng của bà là vào năm 1985 khi cháu gái của bà kết hôn. Bà đích thân vấn khăn cho người cháu bà yêu quý.
Vào ngày 19/9/2001, vị chứng nhân lịch sử cuối cùng của triều nhà Nguyễn Mệ Bông qua đời. Đó là sự xót thương rất lớn đối với con cháu cũng như những ai yêu mến Mệ Bông – Nguyễn Thị Cẩm Hà.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận