Khi nào cần đi khám hậu COVID-19?
Hiện nay có rất nhiều cựu F0 thắc mắc, khi nào cần đi khám hậu COVID-19 và theo dõi sức khỏe sau khi âm tính như thế nào? Tất cả sẽ được giải đáp ngay sau đây.
Cần hiểu đúng về hậu COVID-19
Theo cơ quan y tế, tất cả các mặt bệnh đều ít nhiều để lại di chứng. Những di chứng sau khi mắc bệnh để lại thì được gọi là hậu (hậu ở đây có thể là do bệnh để lại hoặc có thể do biến chứng của bệnh để lại).
Tỷ lệ di chứng của mỗi loại bệnh là khác nhau. Có những mặt bệnh để lại di chứng với tỷ lệ cao, gặp ở hầu hết người bệnh như: Tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim... Tuy vậy, may mắn là số lượng người mắc những bệnh này lại chiếm tỷ lệ thấp. Do đó ta không nhận thức được nguy hiểm/nguy cơ trước đó.
Hoặc một mặt bệnh tiềm tàng với tỷ lệ phơi nhiễm (tỷ lệ tiếp xúc với tác nhân gây bệnh) rất cao tại Việt Nam là viêm gan B. Nhưng không phải ai cũng bị phơi nhiễm với virus viêm gan B cũng mắc bệnh, bị bệnh và để lại di chứng (theo nhiều nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ phơi nhiễm của cộng đồng người Việt Nam với viêm gan B giao động từ 10 - 20%. Tức 100 người sống thì có từ 10/20 người trong đời đã từng phơi nhiễm với virus viêm gan B với 90% chuyển sang mãn tính mà không hoặc chưa biểu hiện ra bệnh (người bị viêm gan B mạn tính là người có xét nghiệm HbsAg +). Biến chứng của viêm gan B vô cùng nặng nề ( xơ gan, ung thư gan...).
Còn COVID-19 là một bệnh truyền nhiễm mới, tỷ lệ lây lan nhanh. Cho đến nay, Việt Nam đã có ít nhất 4,8 triệu người nhiễm bệnh. Các báo cáo của WHO chỉ ra, tỷ lệ di chứng gặp phải của bệnh là khoảng 20 - 60% (tùy nghiên cứu, chưa đồng bộ). Nhưng chủ yếu là các di chứng nhẹ như: Rối loạn giấc ngủ, hồi hộp đánh trống ngực, ho khan, tức ngực...
Biến chứng nặng nề nhất của COVID-19 được nhắc đến là MIS (hội chứng suy giảm đa cơ quan) gặp với tỷ lệ rất thấp. Tại Mỹ tỷ lệ này là 1/4.000 trẻ mắc bệnh và may mắn là vaccine giúp làm giảmn hơn nữa tỷ lệ mắc MIS và các thể nặng khác của bệnh.
Khi nào cần đi khám hậu COVID-19?
Theo Ths.BS Nguyễn Thu Hường, Trưởng đơn nguyên chống dịch, Bệnh viện Thanh Nhàn: “Qua các trường hợp đến Bệnh viện thăm khám, chúng tôi nhận thấy các triệu chứng hậu COVID-19 mà bệnh nhân gặp nhiều nhất là: Mệt mỏi, khó thở, hụt hơi, thể lực giảm nhiều, bệnh nhân mất tập trung, rối loạn giấc ngủ và có những bệnh nhân gặp các rối loạn về tiêu hóa…”.
“Qua tiếp nhận các trường hợp hậu COVID-19, chúng tôi nhận thấy ở các bệnh nhân từng nhiễm chủng Delta, dù khi mắc triệu chứng rất nặng nhưng hậu COVID-19 không thấy các triệu chứng rõ ràng; nhưng với các trường hợp nhiễm biến thể Omicron, tuy triệu chứng lâm sàng khi mắc không nặng nhưng hậu COVID-19 thì có vẻ nặng nề hơn, một số bệnh nhân thậm chí còn phải chạy ECMO”, BS. Nguyễn Thu Hường cho biết.
Cũng theo bác sĩ Hường, với các bệnh nhân sau khi mắc COVID-19, khi có các dấu hiệu của hậu COVID-19 nên được thăm khám và điều trị kịp thời. Nhất là các bệnh nhân sau khi ra viện, căn cứ vào tình trạng bệnh nhân như: Bệnh nhân phải dùng thuốc thuốc chống đông, bệnh nhân có bệnh lý nền… thì nên quay trở lại bệnh viện tái khám càng sớm càng tốt trong vòng 1 tuần đầu ra ra viện để có xét nghiệm, tiên lượng cho bệnh nhân, có can thiệp hỗ trợ cho bệnh nhân khi cần thiết.
Qua thăm khám, các bác sĩ sẽ tiên lượng, giải thích và tư vấn cho bệnh nhân. Nếu cần thiết, bệnh nhân sẽ được nhập viện điều trị. Với những bệnh nhân không cần nhập viện, bác sĩ tư vấn cho người bệnh tự theo dõi sức khỏe.
Cụ thể, với bệnh nhân khó thở, cần hỗ trợ hô hấp sẽ được hướng dẫn cụ thể về các biện pháp tập thở, tập thể dục, chế độ ăn uống sinh hoạt phù hợp. Đặc biệt, bác sĩ cũng tư vấn liệu pháp tâm lý cho người bệnh, đây là yếu tố cực kỳ quan trọng với bệnh nhân sau mắc COVID-19.
Các bác sĩ cũng khuyến cáo, người bệnh sau nhiễm COVID-19, dù khi mắc có hay không có triệu chứng, sau đó vẫn nên đến đi khám, tư vấn, kiểm tra để loại trừ các tổn thương. Bởi có những trường hợp, các di chứng để lại không có biểu hiện triệu chứng trên lâm sàng nhưng tình trạng bệnh sẽ tiến triển dần và nặng lên. Việc kiểm tra sẽ giúp phát hiện sớm các biến chứng để có phương án can thiệp kịp thời.
Sau COVID-19 cần kiểm tra những gì?
Nếu không có dấu hiệu gì bất thường: Bạn có thể cân nhắc đi kiểm tra sức khỏe thông thường như 1 kiểm tra định kỳ. Thời gian tùy bạn sắp xếp nhưng không muộn hơn 6 tháng từ khi phơi nhiễm ( kiểm tra sức khỏe định kỳ không phải là khám bắt buộc).
Nếu có dấu hiệu BẤT THƯỜNG: Sau nhiễm bệnh, bạn thấy có những dấu hiệu bất thường như sau:
- Ho khan/tức ngực kéo dài 1 vài tuần
- Đau đầu liên tục kéo dài
- Đau bụng/ngực
Đặc biệt khi có các dấu hiệu sau, cần đi khám ngay lập tức:
- Nôn/ Ho ra máu, đi ngoài phân đen
- Sốt cao liên tục ( sốt cao liên tục sau mắc bệnh > 5 ngày cũng cần phải khám)
Đối với trẻ em, cần phải đưa trẻ đi khám ngay khi có các triệu chứng sau:
- Trẻ sốt cao liên tục > 38,5 độ C, kèm theo có các dấu hiệu như rối loạn tiêu hóa (nôn, tiêu chảy, đau bụng), phát ban trên da, mắt đỏ, môi đỏ khô nứt, họng đỏ.
- Trẻ có các dấu hiệu bệnh nặng như: Thay đổi ý thức (vật vã, kích thích, ngủ gà, li bì), mạch nhanh, tay chân lạnh, khó thở, mệt mỏi. Kể cả với di chứng nặng nề như hội chứng MIS nếu được phát hiện sớm, kịp thời vẫn điều trị và cứu chữa được.
Hậu COVID cũng như các bệnh khác: Gặp phổ biến nhưng không phải là không điều trị được và hầu hết thể nhẹ tự khỏi được với các phương pháp luyện tập thông thường sau:
- Vận động thể thao
- Tập thở
- Ăn, ngủ đủ và lành mạnh, đúng giờ ( tập thiền cũng là 1 gợi ý)
- Lắng nghe cơ thể, nếu thấy có bất ổn thì đi khám kiểm tra
- Tìm hiểu bệnh tật trên các kênh/trang thông tin chính thống, tin cậy.
Tiêm vaccine là phương pháp hiệu quả nhất phòng bệnh và biến chứng nặng của bệnh.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận