Chúa Chổm trong truyện dân gian "nợ như Chúa Chổm" thực chất là nhân vật lịch sử nào?

Chúa Chổm trong câu nói truyền miệng "nợ như Chúa Chổm" là nhân vậy lịch sử có thật. Song chuyện nợ nần của Chúa Chổm lại mang đậm màu sắc dân gian.

Đỗ Thu Nga
14:00 16/09/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Sự tích "nợ như Chúa Chổm"

Ngày xưa, vào thời nhà Lê, vua Lê Chiêu Tông bị kẻ xấu hãm hại để cướp ngôi. Trước khi qua đời, ông nương nhờ nhà một người phụ nữ trong dân gian và có con với người này. Đứa trẻ sinh ra được đặt tên là Chổm.

Chổm càng lớn càng thông minh, lanh lẹ hơn người. Nhưng do nhà quá nghèo nên Chổm được mẹ đưa vào chùa nương nhờ cửa Phật.

Tuy sáng dạ nhưng cậu bé Chổm rất tinh nghịch. Một lần nọ, sau khi đi chơi về, bụng đang đói, sẵn thấy tượng Mụ Thiên có mâm hoa quả, Chổm liền đưa tay che mắt tượng rồi lấy đồ cúng ăn luôn.

chua-chom-la-nhan-vat-lich-su-nao-8
Bìa truyện dân gian "nợ như Chúa Chổm"

Không may sự việc này lại bị sư Thạch Toàn nhìn thấy. Sư cho cậu bé Chổm một trận no đòn. Dù sai nhưng trong lòng Chổm rất ấm ức. Cậu bèn trút giận lên tượng Phật bằng cách viết mảnh giấy "mười tay, mười mắt không giúp gì được cho ta, thật vô ích, cho đày đi phương xa". Sau đó dán mảnh giấy đó vào đằng sau tượng.

Tối hôm đó, khi sư Thạch Toàn đang ngủ thì nằm mộng thấy Phật Mụ Thiên báo rằng: "Nhà vua đói bụng nên mới ăn, sao ngươi trừng phạt ông làm gì để giờ ông đày ta đi xa thế này. Hãy thay ta xin lỗi ngài để rút lại lệnh đuổi ta đi".

Sư Thạch Toàn giật mình tỉnh giấc, trằn trọc suốt đêm không ngủ được. Sáng hôm sau, sư Thạch Toàn gặng hỏi Chổm xem cha là ai nhưng chính cậu bé cũng không biết. Khi hỏi mẹ Chổm thì bà sợ nên nói rằng đã bị hổ ăn thịt rồi. Cho nên, Chổm hận hổ lắm, quyết giết chết hổ để báo thù cho cha.

Vào một ngày nọ, Chổm đi rừng và bắt gặp 1 con hổ đang ngủ dưới tán cây. Lúc này, cậu bèn lấy đá đập vỡ đầu nó. Nhưng không may, không biết từ đâu một con hổ khác xồ ra đuổi riết lấy Chổm. Trong phút nguy cấp này, bỗng có 1 ông lão tóc bạc phơ hiện ra giết hổ, bảo vệ Chổm. Sau đó còn dậy cậu võ công để phòng thân.

chua-chom-la-nhan-vat-lich-su-nao-9

Sau này, khi xã hội rơi vào cảnh binh đao loạn lạc, Chổm với tài võ nghệ học được cùng mưu trí hơn người đã lãnh đạo dẹp yên phản quân, đem lại bình yên cho đất nước. Và thuận theo lòng dân, Chổm được phong làm Chúa. 

Còn về chuyện "nợ như Chúa Chổm": Tương truyền, trước khi vào chùa, mẹ con Chổm sống rất khổ sở. Chổm đang tuổi ăn tuổi lớn nên thường hay mua thiếu, mua nợ các hàng quán, rồi hứa hẹn khi nào ăn nên làm ra sẽ trả cả gốc lẫn lãi. 

Trộm vía, dù ăn thiếu nhưng cứ hàng nào Chổm ngồi vào là lại đắt khách, người đến người đi nườm nượp. Hàng nào Chổm không ngồi là y rằng ế khách. Cũng vì thế mà các chủ quán cho Chổm ăn nợ để lấy vía buôn bán.

Sau này, khi đã lên ngôi vua, Chổm trở lại chốn cũ từng sinh sống năm xưa. Những bà con nơi đây, năm xưa từng bán chịu cho Chổm nhận ra người quen, dù không biết chuyện gì nhưng thấy ngồi xe giá, đoán là đã giàu có nên đều chạy ra, chỉ vào Chổm mà đòi những món nợ cũ.

Lúc này Chổm không thể nhớ được đã nợ những ai cũng như nợ bao nhiêu tiền cho nên truyền chỉ miễn thuế 1 năm cho dân chúng cả làng để trừ đi số nợ năm xưa! Ngoài ra, triều đình cũng ra lệnh cấm được chỉ tay đòi nợ cho nên sau này có con đường nhỏ ở Thăng Long mang tên Cấm Chỉ.

Chúa Chổm là nhân vật lịch sử nào?

Chúa Chổm trong sự tích "nợ như Chúa Chổm" là nhân vật lịch sử có thật, đó là Lê Trang Tông (1515 - 9/3/1548) hay còn gọi là Trang Tông Dụ Hoàng đế. Tên thật là Lê Ninh. Ông là hoàng đế thứ 12 của nhà Hậu Lê và là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lê Trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được dân gian gọi là "Chúa Chổm". 

Nói về thân thế của "Chúa Chổm", tại Thanh Hóa, các cuốn sách cổ của người Thái được lưu truyền từ ông quan bản Dộc là Hà Văn Yên tại Mường Khoòng xưa (xã Lũng Cao, Bá Thước hiện nay) có ghi chép về thân thế vua Lê Trang Tông – người mà dân gian gọi là Chúa Chổm.

chua-chom-la-nhan-vat-lich-su-nao-6
Trong dân gian có không ít giai thoại về thân thế của Chúa Chổm

Theo cuốn sách này, tại bản Dộc thuộc vùng đất Mường Khoòng, nơi giao thoa văn hóa giữa người Thái và người Mường Bi (Mường ngoài). Nơi đây hẻo lánh, có núi bốn bề bao bọc, đất đai phì nhiêu, cuộc sống bản làng êm ấm. Ông Hà Văn Yên là người có uy tín với dân bản nên được tôn là quan bản Dộc, ông hiền lành lại chịu khó và hào phóng nên được nhiều người yêu quý.

Một hôm quan Dộc đang cày ruột thì thấy 1 người phụ nữ bụng mang dạ chửa từ phương xa tới do bị kẻ gian hãm hại, đang truy sắt. Dù chưa biết rõ thực hư chuyện này nhưng quan Dộc vẫn vui vẻ giúp đỡ. Ông đưa người này vào hang lớn kín đáo dấu tung tích. Đồng thời sai người đến chăm sóc chờ ngày sinh nở.

Một ngày nọ nghe tin ông Quốc Công là quan lớn ở miền xuôi đang chiêu mộ binh trong vùng, ông liền tìm đến hỏi chuyện. Vị Quốc Công nói rằng: "Kinh thành có loạn lớn, gian thần lộng quyền, lòng người không thuận. Gần đây, ta xem thiên văn thấy sao Thái vương chiếu sáng vùng Mường Khoòng, lẽ nào là điềm lành rằng nơi này sắp có thiên tử?".

Ông bèn thuật lại chuyện cứu giúp người phụ nữ sắp đến ngày sinh nở. Vị Quốc Công liền nói rằng: "Ngươi nên chăm sóc người đó cẩn thận, nếu l̼i̼n̼h̼ ̼ứ̼n̼g̼ thì đúng là hồng phúc của nước nhà. Người thường thì chửa thường, còn trứng rồng thì phải đủ 12 tháng mới nở. Lúc sinh thì vào ban ngày, trời quang mây tạnh”.

Quả nhiên, người phụ nữ phải 12 tháng mới trở dạ, suốt từ sáng đến chiều tối vẫn chưa sinh được. Ông Dộc phải làm lễ cúng trời đất thì trời sáng trở lại, đứa trẻ được sinh ra. Ông Dộc tiếp tục nuôi dấu 2 mẹ con. Người làng biết chuyện thì gọi cậu bé là "Chù Chổm" nghĩa là "dấu trộm", ý nói hai mẹ con được trộm dấu đi nuôi nấng, sang tiếng kinh đọc chệch thành "Chúa Chổm". Đến năm 1533 thì cậu bé đã lớn hơn, lúc này quan Tày Ngự (chỉ Nguyễn Kim) đến đón để phò làm Vua, lúc đó người dân mới biết về thân thế của “Chù Chốm”.

chua-chom-la-nhan-vat-lich-su-nao-5
Mạc Đăng Dung cướp ngôi báu của nhà Lê

Lại nói về chuyện nhà Lê - Mạc, do Mạc Đăng Dung hại vua cướp ngôi nên không được lòng trung thần triều cũ. Họ vì thế mà bỏ đi, tìm cách phục dựng nhà Lê diệt nhà Mạc, trong đó có Hữu Vệ Điện Tiền tướng quân An Thanh Hầu Nguyễn Kim

Tướng Nguyễn Kim chạy sang Ai Lao (ngày nay thuộc Lào, giáp với các tỉnh miền Trung Việt Nam) và được vua Xạ Đẩu giúp đỡ, cho mượn đất Sầm Châu để dựng bản doanh, chiêu mộ binh sĩ. Rồi tìm lại hậu duệ của vua Lê để phò tá.

Nguyễn Kim đã tìm được hậu duệ vua Lê là Lê Duy Ninh (tức vua Lê Trang Tông sau này). Trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú có chép: "Nguyễn Kim thấy Lê Duy Ninh ở vùng thượng du Thanh Hóa, đón sang Ai Lao lập làm vua".

Đến khoảng đầu thập niên 1540, quân Lê chiếm lại hai vùng Thanh Hóa và Nghệ An làm căn cứ chống lại nhà Mạc, mở ra giai đoạn Nam - Bắc triều. Ông qua đời vào năm 1548, ngôi hoàng đế được truyền cho Thái tử Lê Huyên, tức Lê Trung Tông.

Hành trình nối lại nhà Lê

Sau khi lên ngôi, Lê Trang Tông bàn về công tôn phò, lập Nguyễn Kim làm Thượng thư, Thái sư Hưng quốc công, nắm giữ quyền binh; Đinh Công làm Thiếu úy Hùng quốc công, các tướng tá khác đều được phong thưởng theo thứ bậc. Nhà vua dựa vào vua Sạ Đẩu (Phothisarath) nước Ai Lao để mộ quân, trưng lương chống lại họ Mạc.

Đại Việt sử ký toàn thư có đánh giá: "Vua gặp vận gian truân, nhờ được bề tôi cũ tôn lập, bên ngoài kết giao nước láng giềng, bên trong dùng được tướng giỏi, cho nên người người đều vui lòng làm việc, nền móng trung hưng bắt đầu từ đấy".

Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liêu đi sứ nước Minh, vượt biển từ Chiêm Thành ghé thuyền buôn Quảng Đông. Theo Minh sử, đến năm 1537 mới đến Yên Kinh, tâu lên Gia Tĩnh đế nhà Minh về việc thoán nghịch của họ Mạc và xin nhà Minh giúp quân. Vua Minh có ý nghi ngờ, bọn Duy Liêu liền viết thư để trình bày, tự sánh mình với Thân Bao Tư và Trương Tử Phòng thời xưa.

chua-chom-la-nhan-vat-lich-su-nao-4
Nguyễn Kim là công thần phò tá Lê Trang Tông

Vì Trịnh Duy Liêu đi sứ lâu không thấy hồi âm về nên năm 1536, Trang Tông lại sai Trịnh Viên sang nhà Minh thỉnh cầu phát binh đánh Mạc. Các đại thần nhà Minh đều chủ trương thảo phạt nhà Mạc. 

Tháng 2 âm lịch năm 1537, Gia Tĩnh đế hạ lệnh cho Cừu Loan và Mao Bá Ôn cùng đánh Mạc Đăng Dung. Mùa hạ cùng năm, tướng nhà Mạc là Tây An hầu Lê Phi Thừa cai quản bảy huyện Thanh Hoa, thu vén vơ vét chỗ đinh tam ti mà sang Ai Lao quy thuận nhà Lê, được nhà vua cho giữ nguyên chức cũ, nhưng về sau vì kiêu ngạo mà bị giết.

Năm 1539, Lê Trang Tông dùng con rể Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm làm Dực quốc công, cùng Trịnh Công Năng và Lại Thế Vinh đánh nhà Mạc. Quân Lê đánh bại nhà Mạc ở Lôi Dương. 

Mùa đông năm 1540, quân Minh do Mao Bá Ôn chỉ huy kéo quân đến sát biên giới với nước ta. Mạc Đăng Dung dâng biểu xin hàng, tự cởi trần, trói mình cùng với hơn 40 quan lại đến ải Nam Quan thú tội, tình nguyện dâng nạp sáu động thuộc châu Vĩnh An quy về Khâm châu của nhà Minh.

Năm 1541, Gia Tĩnh đế đổi An Nam quốc thành An Nam Đô thống sứ ty, trao cho Đăng Dung chức Đô thống sứ; đổi đặt toàn quốc làm mười ba Tuyên phủ ti, cho lệ thuộc vào đất nhà Minh. Từ đó nhà Minh đồng ý công nhận họ Mạc cai trị Đại Việt.

Mùa xuân năm 1542, vua đích thân làm tướng ra đánh Thanh Hoa, dùng quận Thụy Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thống. Nguyễn Kim dẫn quân đi trước, tấn công Thanh - Nghệ, nhiều người hưởng ứng theo, thanh thế rất lẫy lừng.

Năm 1543, vua tiến quân ra từ thành Tây Đô, tướng Mạc là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đầu hàng. Nhà vua sai Trịnh Công Năng đem chiếu thư gọi Nguyễn Kim về nước. Nguyễn Kim vào gặp vua ở sông Nghĩa Lộ, được phong làm Thái tể, Đô tướng tiết chế tướng sĩ chư doanh, lại đem quân bình định vùng đất phía tây nam, thường giành thắng lợi. Về sau Trịnh Công Năng làm phản, Trang Tông sai Dực quận công Trịnh Kiểm đi đánh, giết được Năng.

Tháng 4 âm lịch năm 1545, Trang Tông tiến quân đến Yên Mô. Dương Chấp Nhất mời Nguyễn Kim đến chỗ mình rồi bí mật đánh thuốc độc giết chết, quay lại với nhà Mạc. Nhà vua truy tặng Nguyễn Kim là Chiêu Huân Tĩnh công, thụy Trung Hiến, dùng con là Nguyễn Uông làm Lãng quận công, Nguyễn Hoàng làm Hạ Khê hầu, cầm quân đánh họ Mạc.

Mùa thu cùng năm, ông dùng Trịnh Kiểm làm Đô tướng, tiết chế các doanh quân thủy quân bộ, kiêm Tổng nội ngoại Bình chương quân quốc trọng sự, gia phong Thái sư, tước Lạng quốc công. Mọi việc trong nước hết thảy do Trịnh Kiểm quyết đoán, sau mới tâu lên vua. Theo đề nghị của Trịnh Kiểm, vào đầu năm 1546, nhà vua cho lập hành điện ở sách Vạn Lại, là chỗ hiểm trở. 

Ngày 29 tháng 1 năm 1548, Trang Tông qua đời, hưởng thọ 34 tuổi. Trịnh Kiểm lập con ông là Thái tử Lê Huyên lên nối ngôi, tức là Lê Trung Tông, táng di thể của ông lại Cảnh lăng, phía nam Lam Sơn.

Xem thêm: Giai thoại ít biết về mỹ nhân giả điên để không phải sánh duyên cùng vua Gia Long

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận