Anh hùng Lý Tự Trọng và câu nói được thanh niên thế hệ sau coi như 'bản tuyên ngôn về lập trường sống'

Câu nói "Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác” của anh hùng Lý Tự Trọng luôn được thanh niên thế hệ sau coi là "bản tuyên ngôn về lập trường sống, chiến đấu".

Anh hùng Lý Tự Trọng và câu nói được thanh niên thế hệ sau coi như 'bản tuyên ngôn về lập trường sống'

Câu nói "Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác” của anh hùng Lý Tự Trọng luôn được thanh niên thế hệ sau coi là "bản tuyên ngôn về lập trường sống, chiến đấu".

Anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng (20/10/1914 – 20/11/1931) tên thật là Lê Hữu Trọng, còn được gọi là Huy. Anh hùng Lý Tự Trọng sinh tại làng Bản Mạy, tỉnh Nakhon Phanom - Thái Lan. Quê gốc ông ở xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Cha của ông là Lê Hữu Đạt, mẹ là Nguyễn Thị Sờn, đều là những Việt kiều sống ở Nakhon; họ gốc của ông vốn là Lê Hữu song đến đời ông thì được đặt thành Lê Văn. Ông có đông anh chị em gồm: Lê Văn Đại, Lê Văn Tăng, Lê Văn Năng, Lê Thị Sáu, Lê Thị Bảy,...

Vào năm 1926 tại Thái Lan, chàng trai trẻ là 1 trong 8 người được Hồ Tùng Mậu thay mặt Hội Việt Nam cách mạng thanh niên lựa chọn đưa sang Quảng Châu (Trung Quốc) đào tạo để xây dựng tổ chức cộng sản tại Việt Nam về sau.

Chân dung anh hùng Lý Tự Trọng

Đến cuối năm 1926, tại Trung Quốc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đổi tên Lê Hữu Trọng thành Lý Tự Trọng, đưa vào nhóm "Thiếu niên tiền phong Việt Nam". Sau đó, ông được cử đi học, làm liên lạc cho Tổng bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu. Nhờ tài trí thông minh, hoạt bát, Lý Tự Trọng đã góp phần tích cực vào việc liên lạc giữa Tổng bộ và cán bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên đang hoạt động ở Trung Quốc, chuyển thư từ tài liệu cách mạng.

Đến giữa năm 1929, đồng chí Ung Văn Khiêm - một cán bộ lãnh đạo trong An Nam Cộng sản Đảng được phân công về nước và Lý Tự Trọng đi cùng trong chuyến tàu biển của Trung Quốc. Đây thật là thỏa lòng mong ước của ông bao lâu. Ông không chợp mắt được, ông nói chuyện suốt đêm với đồng chí Văn Khiêm.

Đồng chí Ung Văn Khiêm sau này kể lại: "Náu mình dưới hầm chứa than của tàu biển Trung Quốc ngót 15 tiếng đồng hồ, tôi và Lý Tự Trọng vượt qua mọi sự khám xét gắt gao của bọn mật thám, về đến bến Sài Gòn lúc đêm khuya”.

Tượng anh hùng Lý Tự Trọng (Ảnh: VnExpress)

Khi về đến Sài Gòn, Lý Tự Trọng đổi tên thành Nguyễn Huy để dễ về hoạt động, tiếp xúc quần chúng nhân dân. Với nhiệm vụ được giao, Nguyễn Huy càng hăng hái xông xáo hơn, đi sâu vào tận công xưởng, trường học vận động công nhân, thanh niên và học sinh tham gia phong trào yêu nước. Bên cạnh công tác quần chúng, ông còn làm một số việc cụ thể khác như phiên dịch tiếng Trung, tiếng Anh, làm thông tin liên lạc cho Xứ ủy...

Sau ngày thành lập Đảng 3/2/1930, các cao trào cách mạng dấy lên mạnh mẽ trong khắp cả nước. Để biểu dương tinh thần quật khởi, ý chí bất khuất, bản lĩnh cách mạng của cuộc khởi nghĩa Yên Bái và phát động quần chúng nhân dân đấu tranh đòi quyền sống, Xứ ủy Nam Kỳ tổ chức cuộc mít tinh kỷ niệm một năm ngày khởi nghĩa Yên Bái tại Sài Gòn, vào chiều ngày 08/02/1931. 

Cuộc mít tinh khi đó quy tụ đông đảo các tầng lớp xã hội, nhất là công nhân lao động, thanh niên và học sinh thành phố đến dự. Người diễn thuyết đã được chuẩn bị trước, nhưng đến lúc đó chưa có mặt, đồng chí Phan Bội CHâu (phụ trách tuyên truyền diễn thuyết của Xứ ủy) đã đứng ra thay thế, diễn thuyết trước công chúng.

Cuộc mít tinh chớp nhoáng kết thúc, bọn cảnh sát và mật thám ập đến. Tên mật thám tên Lơgơrăng nhảy vào bắt đồng chí Phan Bôi mới diễn thuyết xong. Ngay lập tức Lý Tự Trọng rút súng bắn hai phát khiến tên mật thám gục ngay tại chỗ.

Nhà tưởng niệm là nơi thờ tự anh linh Lý Tự Trọng nằm trong quần thể Khu tưởng niệm Lý Tự Trọng có diện tích 4,39 ha, đặt ở thôn Tân Long, xã Việt Tiến, huyện Thạch Hà

Bị địch bao vây, Lý Tự Trọng và Phan Bội Châu bị chúng bắt đưa về bốt Catina, giam cầm và tra tấn dã man, nhưng kẻ thù không khuất phục được dũng khí cách mạng của hai chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi. Tại Khám Lớn Sài Gòn, bọn cai ngục và mật thám dùng mọi cách dụ dỗ mua chuộc nhưng đều vô hiệu, họ kính nể Huy (tức Lý Tự Trọng) và gọi Trọng là “Ông Nhỏ”.

Đến ngày 18/4/1931, Tòa Thượng thẩm Sài Gòn ra xét xử. Lý Tự Trọng bị kết án tử hình, Phan Bội Châu bị đày ra Côn Đảo với bản án 20 năm khổ sai. 

Đáng nói, trong phiên xét xử này, anh hùng Lý Tự Trọng đã biểu thị dũng khí đấu tranh, lên án kẻ thù xâm lược và nhà cầm quyền thực dân Pháp tại Sài Gòn. Một luật sư trong phiên tòa có ý "bênh vực" cho ông đã nói: "Bị can chưa đến tuổi thành niên, nên hoạt động không có suy nghĩ”, Lý Tự Trọng đã đứng phắt dậy, nói lời đanh thép: “Tôi hành động có suy nghĩ, tôi hiểu việc tôi làm, tôi đủ trí khôn để hiểu rằng con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng không thể có con đường nào khác”.

Mặc dù bản án của thực dân Pháp đe dọa mạng sống của ông nhưng những ngày cuối cùng trong xà lim, Lý Tự Trọng vẫn rất lạc quan. Hàng ngày đều đặn tập thể dục, đọc sách báo, ca hát và xem Truyện Kiều. Ông luôn tin tưởng rằng, một ngày nào đó cách mạng sẽ thắng lợi. 

Mộ phần của anh hùng Lý Tự Trọng

Thực dân Pháp thì không xử công khai Lý Tự Trọng nên lợi dụng lúc nửa đêm về sáng ngày 21/11/1931, chúng đã hèn hạ dựng máy chém ở ngay khám lớn Sài Gòn hòng giết anh trong im lặng. Trước khi lên máy chém, Lý Tự Trọng hát bài Quốc tế ca bằng câu mở đầu đầy khí phách, vang lên dưới vòm trời Tổ quốc và sâu lắng vào lòng người đang sống: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian...!”, và những tiếng hô vang: “Đả đảo thực dân Pháp”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm”, “Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm” đã cổ vũ mạnh mẽ, tạo một làn sóng căm phẫn phản đối tội ác của thực dân Pháp.

Cuộc đời anh hùng Lý Tự Trọng tuy ngắn ngủ nhưng đã góp công lao to lớn vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đặc biệt là tấm gương sáng ngời của anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng qua câu nói: "…Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng không thể có con đường nào khác” đã trở thành lý tưởng sống, thôi thúc bao lớp thanh niên Việt Nam giữ vững niềm, bản lĩnh, tích cực chiến đấu, học tập, lao động, sáng tạo để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".

Cho đến nay, câu nói trên vẫn luôn được thanh niên thế hệ sau coi như "bản tuyên ngôn về lập trường sống, chiến đấu" của thế hệ trẻ vì mục tiêu cao đẹp mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn; là kim chỉ nam hành động cho thế hệ trẻ với tinh thần "Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên".

Xem thêm: Lá thư "thiêng" từ Thành cổ Quảng Trị anh hùng