Lý luận văn học: "Xuyên qua ngôn ngữ, người ta có thể khái quát, cảm nhận hiện thực"

Đề bài: Có ý kiến cho rằng: "Xuyên qua ngôn ngữ, người ta có thể khái quát, cảm nhận hiện thực". Em hiểu ý kiến trên thế nào? Hãy chứng minh qua bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu.

Đỗ Thu Nga
12:00 18/01/2024 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

"Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi.

Còn một nửa cho mùa thu làm lấy.

Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá.

Nó không là anh nhưng nó là mùa."

("Sổ tay thơ" - Chế Lan Viên).

Thật vậy, bản thân hiện thực đã là "một nửa" của bài thơ, hay nói cách khác đó là vẻ đẹp của sự sống, của hiện thực xã hội. Để "mùa thu làm lấy" không phải do thi nhân vô trách nhiệm mà là cách thi nhân cất lên tiếng hát thời đại. Đặt thơ vào cuộc sống, làm cho hơi thở cuộc đời tràn trề trong từng câu chữ là nhiệm vụ của văn chương. Phải chăng vì thế, khi bàn về giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học, có ý kiến cho rằng: "Xuyên qua ngôn ngữ, người ta có thể khái quát, cảm nhận hiện thực". Và bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu là một ví dụ. "Xuyên qua ngôn ngữ", chúng ta cảm nhận được hiện thực cuộc sống nơi chiến hào của người lính những ngày đầu chống Pháp.   

Văn học từ thuở sơ khai đã thổi vào những đại dương bao la, những cánh rừng tươi thắm trên hành tinh xanh của chúng ta một hơi thở ấm áp. Có thể ngôn ngữ không phải tinh hoa đẹp đẽ nhất nhưng không ai có thể phủ nhận những giá trị của văn học. "Ngôn ngữ" không chỉ là thứ giúp ta giao tiếp mà còn là một thứ "bụi vàng" mà người cầm bút phải góp nhặt thì mới kiến tạo nên một công trình nghệ thuật ngôn từ. Chữ "cuộc đời" như một vì sao được chiếc đòn bẩy bật vào trái tim nghệ sĩ, làm ánh lên thứ ánh sáng lung linh, rạng rỡ. "Chúng ta có thể khái quát, cảm nhận hiện thực" có thể hiểu là khi đến với văn chương, ta sẽ nhìn thấy một xã hội thu nhỏ, một tiếng ca từ thời đại mình đang sống. Như vậy, ý kiến trên đã đưa ra một thông điệp  quý giá với mỗi người nghệ sĩ. Hiện thực trong thơ được phu chữ trên cánh đồng văn chương thổi hồn qua lớp ngôn ngữ đã được "đục đẽo" cẩn thận từ những chữ tượng thanh, những chữ tượng hình, vậy nên đến với văn chương ta sẽ đến với một hiện thực thu nhỏ thông qua góc nhìn của  người cầm bút. "Văn học thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học" (Tố Hữu). Nhịp đập phập phồng của đời sống chính là nguồn cảm hứng bất tận, nguồn chất liệu quý báu và là đối tượng phản ánh của văn học nghệ thuật. Văn chương cũng như các loại hình nghệ thuật khác, nếu không bám rễ vào cuộc đời, nếu không hút nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là cây non èo uột, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những phiến lá xanh tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Đã "dính vào duyên bút mực", ngòi bút của anh phải chấm vào nghiên mực cuộc đời thì thơ anh mới tươi mới , neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. Như Lê Quý Đôn từng trăn trở: "Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi non kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được". Cuộc đời chính là dòng sữa ngọt ngào  tuôn chảy không ngừng từ thế hệ này sang thế hệ khác để nuôi dưỡng văn học. 

xuyen-qua-ngon-ngu-nguoi-ta-co-the-khai-quat-cam-nhan-hien-thuc-9

Như thần Ăng-tê chỉ trở nên vô địch khi đặt hai chân lên Đất Mẹ, văn học chỉ cường tráng và dũng mãnh khi gắn liền với hiện thực đời sống. Đầu tiên và trên hết, văn học phải bám rễ vào mảnh đất hiện thực, hút lấy chất mật của  cuộc sống. Văn chương không thể tách rời cuộc đời và ngôn ngữ không thể rời xa tư tưởng.  Cuộc đời ban cho văn chương nghệ thuật nhựa sống mãnh liệt và nuôi dưỡng nó để mang đến cho đời một "trang hoa", cống hiến cho con người những phút giây tuyệt vời lắng đọng nhiều nỗi suy tư. Văn học "là con đẻ của đời", là tiếng "vang động của đời" nhưng "vạt áo" của văn nhân "không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi". Trên khoảng trời hiện thực, phu chữ chỉ cần chọn một đám mây để khắc hoạ, ắt sẽ miêu tả ra cái hồn cả một xã hội. Như Andersen "lượm lặt hạt thơ trên luống đất của người dân cày", như Lép-tônx-tôi "soi gương để thấy được thế giới", mỗi người nghệ sĩ phải viết lên những áng văn muôn đời mà người đọc trong mọi khoảng không gian, thời gian khác nhau đều cảm nhận được hiện thực. Hãy để độc giả "khái quát, cảm nhận được hiện thực" như cái cách Chính Hữu đã để "Đồng chí" lại với đời.

Trong làng thơ Việt Nam, Chính Hữu là một trường hợp đáng để nhiều người mơ ước. Tuy viết ít nhưng thời kỳ nào, ông cũng có những bài thơ rất hay, mang đậm hơi thở thời đại. Sắc xanh áo lính đã gắn bó với Chính Hữu trong suốt con đường thơ của ông và nói đến thơ ông là nói đến những trang thơ về người lính. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông chỉ công bố 3 tập thơ với khoảng gần 50 bài nhưng đã ghi dấu vào thi đàn Việt Nam như một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến. “Đồng chí” ra đời là kết quả của chuyến công tác, làm nhiệm vụ, tham gia chiến dịch Việt Bắc - thu đông của nhà thơ. Từ trải nghiệm đời lính của riêng mình, ông hướng ngòi bút đến đề tài người lính và chiến tranh, những tình cảm của tiền tuyến và hậu phương. Phong cách giản dị, "ngắn ở câu chữ nhưng dài ở sự ngân vang" cứ thể lần lượt hiện ra trong những sáng tác của Chính Hữu. Đọc "Đồng chí", ta cảm nhận được những khó khăn, thiếu thốn của hiện thực dân tộc một thời và hình ảnh hiện bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp. 

Cuộc sống "đánh" vào trang văn anh "muôn nghìn lớp sóng". Anh mở lòng đón nhận và góp nhặt từng cơn sóng để viết nên thơ ca. Nói như Chế Lan Viên: 

"Đời cho anh nắm đất 

Anh làm nên cái bình hoa 

Đời cho anh nhành hoa 

Anh vẽ nên mùi sứ" 

Nhận lấy "nắm đất", "nhành hoa" của "đời", Chính Hữu đã vẽ ra hiện thực cuộc sống của những người lính thời chống Pháp qua bài thơ "Đồng chí" bằng những dẫn chứng vô cùng xác thực. Trước hết, ngòi bút tài hoa của Chính Hữu đã dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành tình đồng chí. Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc thắng lợi không chỉ vì có đường lối lãnh đạo, đấu tranh đúng đắn mà còn là vì có những người nông dân mặc áo lính bỏ lại quê nhà đi ra tiền phương chiến đấu.  Họ có chung hoàn cảnh xuất thân – những người nông dân chân lấm tay bùn:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

 Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Họ là những người xuất thân là nhân dân lao động chỉ quen việc "cuốc cày" ở những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng trở thành đồng đội thân quen. “Anh” đến từ vùng đất phèn nước mặn, “tôi” lại đến từ nơi có thiên nhiên cằn cỗi. Hai con người khác nhau từ những nơi chốn khác nhau lại có cùng điểm chung: đều xuất thân từ miền quê nghèo khó, lam lũ. Nhưng dù đến từ nơi “nước mặn đồng chua” hay “đất cày lên sỏi đá” thì vẫn là vùng đất ấy “đất không nuôi nổi người, người không nuôi nổi đát” (Chế Lan Viên). Chính điểm chung về cảnh ngộ ấy đã dẫn đến tình giai cấp giữa những người bộ đội, đồng thời là mảnh đất màu mỡ cho hạt giống của tình đồng chí nảy nở, phát triển. Tiếng gọi của Tổ quốc đã đưa những con người từ mọi miền đất nước, từ các phương trời “xa lạ” đền gần nhau, để họ được cùng đứng trong một hàng ngũ quân đội, để cùng “chẳng hẹn” mà lại quen nhau:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

“Anh với tôi đôi người xa lạ”. Từ đôi được tác giả sử dụng thay cho từ đồng nghĩa “hai” lại có tác dụng, có giá trị biểu đạt rất lớn. Đã là “đôi” tức là lúc nào cũng gắn bó chặt chẽ, lúc nào cũng hiểu lẫn nhau, và sợi dây tình cảm lúc nào cũng bền chặt, thắm thiết. Cách dùng từ ngữ giản dị, không hoa mĩ này của tác giả như một lời khẳng định, khẳng định tình thân, sự gắn bó giữa hai người lính, cái đẹp đẽ của tình người – tình đồng chí. Thật lạ kì! Tình cảm của những con người ấy được tạo nên từ sự tình cờ, chẳng hẹn quen nhau. Họ đều chiến đấu vì muốn thoát khỏi cái đói, cái khổ của những người dân bị áp bức, bóc lột. Mảnh đất đã nuôi dưỡng họ lớn lên đều bị bủa vây bởi khốn khó; những nương rẫy nước mặn đồng chua, vùng làng quê đất cày lên sỏi đá. Từ sự xa lạ ban đầu giữa đôi người ấy, họ đã quen nhau, gắn bó với nhau, gọi nhau là đồng chí. Đôi người - hai con người - cách dùng từ của tác giả đã làm nổi bật lên cả đoạn thơ - tưởng chừng như số phận định mệnh, ngay từ đầu đã báo trước một tình cảm nảy nở khăng khít trong chiến đấu:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

  Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Hình ảnh súng bên súng, đầu sát bên đầu vừa tả thực, vừa mang tính tượng trưng. Nó không chỉ vẽ lên hình ảnh hai con người cùng kề vai sát cánh mà còn gợi ra trong lòng người đọc lí tưởng cao đẹp: mục đích chung không của riêng ai mà là khát vọng tự do của cả một dân tộc. “Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; “anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỉ”. “Đôi tri ki” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Ta cũng bắt gặp thứ tình cảm cao đẹp ấy trong bài thơ “Tuổi 25” của Tố Hữu với những vần thơ đầy xúc động:

“Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí

Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung

Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng

Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo”

Bạn tri kỉ thật sự không dễ kiếm, có khi cả đời vẫn không tìm được một ai. Vậy mà hai anh lính lại thành tri kỉ của nhau, gắn bó với nhau nhanh chóng như vậy, bất chấp chiến trường nhiều kẻ địch, đường rừng lắm chông gai. Phải chăng khi đứng giáp ranh giữa sự sống và cái chết của chiến tranh, khi quên cả bản thân mình vì lợi ích chung, con người ta mới có những tình cảm tự nhiên và sâu sắc đến vậy? Phải chăng khi đất nước hoạn nạn, đứng trước nguy cơ đánh mất độc lập tự do thì tình bạn, tình tri kỉ mới sớm nảy nở nơi hai con người “xa lạ”? Câu thơ với hình ảnh giản dị mà gợi cảm. Đắp chăn chung, hai người bộ đội đã như anh em một nhà, chia ngọt sẻ bùi, tình thân thắm thiết đến mức không thể diễn tả nổi. Nói đến cái lạnh buốt của đêm rừng nhưng người đọc vẫn cảm nhận được hơi ấm tỏa ra từ ngọn lửa mang tên “tình đồng đội” trong sâu thẳm trái tim, hơi ấm mà cả người lính lẫn người đều chẳng thể nào quên được: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Đó chính là cơ sở vững vàng, là nguồn cội của tình đồng chí.

Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim của mình để “hút nhụy đời” tưới tắm cho những cánh đồng văn học. Ở cánh đồng ấy, có một khoảng trời dành riêng cho văn học cách mạng, văn học của hiện thực tàn khốc mà cũng đẹp đẽ vô cùng. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi là hình ảnh cao quý và đẹp đẽ nhất. Hình ảnh ấy đã đi vào lòng người và văn chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp.  Và, như một phép màu, sự đồng cảnh, đồng cảm, đồng giai cấp, đồng tâm tư đã hóa thành tình cảm cao quý thiêng liêng giữa hai anh, họ gọi nhau bằng cái tên chung: 

“Đồng chí!”

Câu thơ từ bảy, tám từ đột ngột rút lại thành hai tiếng “đồng chí” tha thiết, dâng trào cảm xúc. Không chỉ đóng vai trò là tiếng gọi quân đội trang nghiêm mà đó còn là tiếng gọi chân thành từ sâu thẳm con tim người lính chiến, là tiếng gọi reo vui của hai con người cùng chung chí hướng, cùng chung lý tưởng, mục đích khi đứng dưới lá cờ Cách mạng; không chỉ là danh từ mà còn là một tính từ bộc lộ tình cảm, niềm xúc động xen lẫn lòng từ hào. Xúc động trước tình bạn tri giao cao đẹp, không lợi dụng, tính toán, hai người bạn gắn bó với nhau vô điều kiện, bởi cả hai có rất nhiều điểm chung: từ xuất thân, cảnh ngộ đến lòng căm giặc đến chung một tình cảm, một tấm chăn. Tự hào khi tình cảm cao đẹp nay đã được nâng lên thành một thứ thiếng liêng và quý giá hơn: tình đồng chí. Là kết tinh, tinh hoa của mọi thứ: tình người, cao hơn tình người là tình giai cấp, cao hơn tình giai cấp là tình bạn, tình tri kỉ, và trên cả tình tri kỉ chính là tình đồng chí. Hai tiếng “đồng chí” mới thiêng liêng làm sao, mới tha thiết làm sao. Gọi nhau là “đồng chí”, anh với tôi dương như không còn nữa những khác nhau về văn hóa, sự chênh lệch tuổi tác, những e dè của hai con người đến từ hai phương trời khác biệt. Các cá thể khác nhau như quyện hòa làm một, trở thành một khối với tình đoàn kết vững chắc. Tuy chỉ có hai tiếng ngắn ngủi nhưng câu thơ lại đóng vai trò quan trọng trong bố cục toàn bài. Nó đánh dấu cột mốc mới trong mạch cảm dúc của tác giả, bao hàm nhiều suy nghĩ sâu xa, nhiêu tư tưởng mang tầm triết lý. Như nét chấm phá tuyệt vời trong bức tranh thủy mặc, như nốt nhạc nhấn âm trong bản giao hưởng bằng lời thơ, hai tiếng “đồng chí” đã đem lại cho bài thơ trữ tình người lính một kết cấu mạch lạc chỉ có ở văn thơ chính luận. Tất cả đã làm cho giọng thơ như xao xuyến hơn, lời thơ như lưu luyến hơn, và bản hòa ca bất tận của tình người trở nên sâu sắc hơn, lắng đọng hơn. Đâu cần phô trương, đâu cần sự gắn kết gì cao xa, chỉ cần qua gian khổ, giữa con người cũng có thể thành tri kỉ. Giọng thơ đột ngột bị ngắt nhịp bởi hai tiếng gọi thân thương: Đồng chí! Dường như đó là tiếng gọi thốt ra từ trái tim, từ xúc cảm tha thiết, thân thương giữa những người đồng đội. Câu thơ đã làm nên một nút thắt đặc biệt, một điểm nhấn, một nét chấm phá riêng biệt cho bài thơ. Âm hưởng da diết của tiếng gọi đã làm rung động lòng người: Đồng chí. Từ việc cùng chung chí hướng - trong gian nan đã tạo nên niềm cảm kích, xúc động chân thành, trong giây lát, tiếng gọi Đồng chí vang lên - phải chăng đó là cung bậc tình cảm cao quí nhất, thiêng liêng nhất sưởi ấm cho trái tim những con người thổn thức nhớ về quê hương?

Tình đồng chí cao đẹp giữa những người lính không chỉ thể hiện ở những cơ sở hình thành tình đồng chí mà còn hiện hữu ở những biểu hiện tạo nên sức mạnh tinh thần của anh bộ đội cụ Hồ. Cô đơn giữa núi rừng thăm thẳm, hai anh bộ đội đã tâm sự với nhau về những ngổn ngang trong tâm tư. Là những người lính dũng cảm kiên cường trong chiến đấu, bất khuất truóc kẻ thù nhưng họ cũng là những con của làng quê mộc mạc, chân chất, bình dị. Và đã là người con của quê hương, xóm làng thì không ai đi xa mà lại không luôn nhớ về. Người chiến sĩ cũng vậy. Họ đã gác lại cái yên bình ấm êm của bản thân để ra đi cho niềm vui chung của toàn dân tộc: 

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

 Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

 Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Họ tâm tình, kể chuyện cho nhau nghe, về ruộng nương anh, về gian nhà không, giếng nước, gốc đa. Hoài niệm, hồi ức của quê hương ùa về trong tâm trí họ. Để cho ta hiểu rằng, họ bỏ quê hương cũng vì muốn tốt đẹp cho quê hương. Họ đành dứt áo ra đi, mặc kệ tất cả, bỏ lại người thân, gia đình để dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kì gian khổ. Giờ đây, đối với anh trai làng mặc áo lính, không còn gì quan trọng hơn sinh mệnh của đất nước, như Bác Hồ đã nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, anh đã tạm quên cái quý giá của cuộc đời mình để ra đi bảo vệ cái quý giá của đất nước giang sơn. Ruộng nương được anh gửi lại cho người bạn thân cày . Và gian nhà… tác giả Chính Hữu mới tài tình làm sao khi dùng chữ “không” khi miêu tả trong “gian nhà không”. Gian nhà không nhiều vật dụng, đơn sơ vì cái nghèo quay quắt lan tỏa vào đời sống từng người trong khoảng thời gian khó khăn ấy của đất nước; nhưng từ không mà nhà thơ sự dụng lại không thảm thương bi đát như sự thực của nó, cũng không lạc quan hóa quá đáng cái khổ mà vừa phải, vừa giàu sức gợi hình, vừa mang tính gợi cảm. Ngôi nhà trống không vì đơn sơ, nay lại càng trống trải vì vắng bóng người trai cần cù tháo vát nhưng anh vẫn “mặc kệ” để lên đường nhập ngũ. Hai chữ “mặc kệ” hay chính là lòng quyết tâm, thái độ dứt khoát mạnh mẽ của anh lính với lòng yêu nước trào dâng. Và cũng chính lòng yêu nước đã làm cho hình tượng người lính cao cả như một vị anh hùng: dốc sức vì nước, không so đo, khư khư giữ lấy hạnh phúc cho riêng mình. Một sự hi sinh thầm lặng và vô cùng đáng quý. Nhưng cho dù dứt khoát ra đi như vậy, anh trai làng ở trận tuyến vẫn không thể quên được hình bóng quê nhà thân thương. Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “Giếng nước gốc đa” vốn là biểu tượng đẹp của làng quê Việt Nam, nay còn là cội nguồn của nỗi nhớ thương xuất phát từ hai chiều. “Giếng nước gốc đa” không đơn thuần là cảnh vật quê hương mà còn là người thân, cha mẹ, anh em, họ hàng, là tất cả những người quan trọng trong cuộc đời người bộ đội. Dù “người ra đi đầu không ngoảnh lại” mặc cho “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” (Nguyễn Đình Thi) nhưng trong lòng “người ra đi” ấy vẫn đau đáu nhớ về cái “thềm nắng lá rơi đầy” quen thuộc, cũng như anh chiến sĩ dù “mặc kệ” cả căn nhà, bỏ lại cả ruộng nương nhưng bên trong anh, ngọn lửa nhớ thương chưa bao giờ bị dập tắt. Nhưng đó là nỗi nhớ từ nơi nao, là “giếng nước gốc đa” nhớ người đi hay chính là nỗi nhớ cồn cào khôn nguôi của người đi về “giếng nước gốc đa”? Người đi lính nhớ về người ở lại, kẻ ở lại lại nhung nhớ người ra đi; người ra trận luôn hướng tầm mắt về nơi quê nhà, người ở quê nhà lại luôn dõi theo bước chân người ra trận. Cùng một nỗi nhớ nhưng lại hằn sâu nơi cả hai miền kí ức. Hậu phương ủng hộ tiền tuyến, luôn hướng về tiền tuyến, còn tiền tuyến lại như mạnh mẽ hơn trước niềm tin mãnh liệt của hậu phương. Một hình ảnh chân thực và cảm động. Qua đó, hình tượng người lính hiện lên thật anh hùng, mạnh mẽ dút khoát trước tiếng gọi của non sông, song vẫn rất giàu tình nghĩa khi nhớ mãi về quê hương, nhà cửa, về người thân, bạn bè. Có lẽ trong lòng anh chiến sĩ vẫn còn day dứt hình ảnh mẹ già lúc tiễn con ra trận:

“Chiều nay con ra trận

Lòng mẹ thương

Nhưng thôi tình chẳng bận

Đi đi mẹ lắng tin chờ”

(Chế Lan Viên)

Và lời hỏi “Bao giờ trở lại. Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong” (Hoàng Trung Thông) nên cái hình bóng quê hương mới thật đậm sâu rõ nét như vậy. Chất đầy nỗi nhớ và niềm tin, hành trang ra trận của người lính như đầy hơn bao giờ hết.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hiếm có người lính Trường Sơn nào lại không một lần bị sốt rét. Sốt rét là thứ bệnh phổ biến ở Trường Sơn, là kẻ thù cùng chung giường, chung võng. Chính “nó” đã loại khỏi vòng chiến đấu nhiều cán bộ, chiến sĩ của ta khi chưa kịp cầm súng trên mặt trận. Cả ngày khỏe mạnh, gùi đạn, gùi gạo, đào công sự như lực sĩ, nhưng đến chiều bỗng dưng run cầm cập, quấn vào người bao nhiêu là màn xô, tăng, võng vẫn rét. Rét từ trong rét ra, giống như có một luồng khí rút hết hơi người trong ruột gan mà thổi tống ra ngoài cơ thể. Khi lên cơn sốt uống thuốc ký ninh là đỡ, cố gắng ăn rồi nằm nghỉ qua đêm, sáng hôm sau lại bình thường, đến chiều lại sốt. Cái chu kỳ ấy cứ lặp đi lặp lại cả tháng, cả năm… Những trận sốt rét rừng thâm độc không thể quật ngã ý chí một con người. Bởi bên họ, luôn có sự tương trợ, giúp đỡ, luôn có tình đồng chí thân thương:

“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

 Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”

Ra đi từ làng quê nghèo khổ, các anh lại gặp thêm cái nghèo nàn nơi quân đội. Mấy câu thơ thôi mà phản ánh được một thực trang, một thời kì khó khăn của cả nước. Đất nước ta nghèo do bị thực dân bóc lột, và vì đất nước nghèo nên con người, và đến cả quân đội cũng nghèo theo. Bằng phép liệt kê và giọng điệu thơ bùi ngùi trầm lặng, Chính Hữu đã kể về những thiếu thốn của quân đội và của người lính Việt lúc bấy giờ: thiếu lương thực, thuốc men, thiếu cả quân trang, quân phục. Kể sao cho xiết hằng hà sa số những khó khăn kham khổ của các anh chiến sĩ thuở kháng Pháp? Từ những đợt sốt rét quái ác hành hạ cơ thể con người, dù mình “ớn lạnh”, “sốt run người” nhưng vầng trán lại “ướt mồ hôi”; đến bộ quần áo rách tả tơi vì dầm mưa dãi nắng, vì gai cào xước chỉ. Ta bỗng nhớ lại hai câu thơ:

“Phi sốt rét bất thành bộ đội

Phi áo vá bất thành bộ đội”

Trong đời bộ đội có mấy ai là chưa từng nếm qua mùi vì đắng ngắt của căn bệnh sốt rét đâu, có mấy ai mà quần áo vẫn lành lăn sau bao ngày xông pha chốn rừng thiêng nước độc đâu. Nhưng, mới thật kì diệu, người lính oai dũng vẫn không hề bị quật ngã bởi những cay cực nhọc nhằn. Nguồn cội của ‘sức mạnh kì diệu đó chính là tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn khắng khít giữa hai người. Cùng nhau trải qua gian lao cay đắng, khó khăn tưởng như quá lớn không thể vượt qua đã được chia đôi trong khi sức mạnh tinh thần của họ lại được nhân lên nhiều lần sức mạnh tinh thần nâng lên lại thúc đẩy sức mạnh thể xác đi đến ngưỡng cao hơn. Từ “biết” mà nhà thơ sử dụng đã nói lên tất cả sự chia chia ngọt sẻ bùi của người lính. Tôi biết anh khi đang trong “cơn ớn lạnh”, anh biết tôi khi “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Tôi biết anh áo rách vai, còn anh lại biết tôi “quần có vài mảnh vá”. Tôi hiểu cho tâm tình của anh, anh thông cảm cho nỗi lòng tôi. Và cũng vì không cô đơn trong khổ cực gian khó, hai người đồng chí mới bật tung được hàng bao cảm xúc ấm áp, tự nhiên trong hoàn cảnh mìn bom chất đống, súng rơi đạn lạc:

“Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Người nông dân mặc áo lính bỗng trở nên vĩ đại hơn bao giờ hết. Thiếu thốn ngay đến cả những phương tiện vật chất tối thiểu như quần áo, giày dép, nhưng người lính lại rất giàu có về tâm hồn. Trong tình thế ngặt nghèo nhất, trong cảnh ngộ tăm tối nhất, thế mà nụ cười vẫn nở trên môi các anh, dù đó là cái “miệng cười buốt giá”. Đó là cái buốt giá của thời tiết hay cái lạnh lẽo của cuộc sống vốn lắm trêu ngươi, gieo rắc khó khăn lên đời người lính? Dù là gì đi nữa thì nó vẫn là nụ cười đáng quý nhất, vì được thắp lên trong gian nan ngặt nghèo, trong tình huống mà tưởng chừng không thể mỉm cười nổi, tựa như ánh bình minh chiếu sáng cả một vùng trời đen tối, như đóa hoa bung nở trong khu vườn băng đóng im lìm. Nụ cười ấy thật đáng yêu, đáng quý và đáng khâm phục. Nụ cười ấy đã nói lên tất cả về người lính: tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng, không đầu hàng số phận. Đâu phải ai cũng có thể cười lạc quan như các anh trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước, con người, dân tộc? Cười ấy hoàn toàn không phải là cái cười thản nhiên lạnh lùng, mà là cười trong buốt giá để vượt qua cái buốt giá, để tâm hồn ấm lên, để lòng thấy tự tin hơn, vững vàng hơn. Hai người đồng chí đã vượt lên tất cả, từ cái rét tê tái của thời tiết, cái lạnh run của bệnh sốt rừng, cái thiếu thốn quan áo (áo rách vai, quần vá, không giày…) để đến được ngưỡng thăng hoa của tình cảm, của tình đồng chí thiêng liêng, gắn bó: nắm lấy bàn tay nhau. Cao hơn hết thảy mọi cử chỉ quan tâm, mọi lời nói sẻ chia, hai anh lính chiến nắm tay nhau trong cảnh rừng buốt giá ấy lại chính là biểu tượng đẹp nhất của sự “thương nhau” giữa người với người, của tình đồng chí mộc mạc và thấm thía. Giá buốt mà không lạnh lẽo, là khi hai người bộ đội nắm chặt tay nhau, truyền cho nhau hơi ấm tình người, những khao khát vượt lên số phận, những niềm tin chiến thắng hân hoan. Tác giả khéo léo sử dụng giọng thơ trầm lắng, cảm động khi nói về hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” để bộc lộ tình đồng chí chân thành, đậm sâu, hồn hậu như cây lúa củ khoai, như tấm lòng của anh trai cày ra trận. Bàn tay im lặng như lại nói lên được tình cảm thiêng liêng - tình đồng chí, tình người, tình anh em, Bàn tay thắt chặt tình thân, đốt cháy lên ngọn lửa đoàn kết, tinh thần diệt giặc lập công nơi người lính… Một cách biểu lộ tình cảm tự nhiên, xúc động, nó như làm ta nhớ lại câu thơ:

“Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình

Điều chưa nói bàn tay ta đã nói”

(Lưu Quang Vũ)

Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí là "bàn tay nắm lấy bàn tay". Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng lièng cao đẹp của mối tình đồng chí. Đoạn thơ với nhiều nét tả thực chi tiết mà không trần trụi, vẫn gợi cảm nhờ hình ảnh "anh với tôi" gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động "thương nhau" nhưng không biết làm sao, chỉ biết lặng lẽ “tay nắm lấy bàn tay". Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu hiện tình cảm đáng quý như thế. Đó là hiện thực những ngày kháng chiến chống Pháp một thời của dân tộc đã được Chính Hữu khắc hoạ rõ nét trong bài thơ.

Chính Hữu đã từng là một người lính, bởi vậy ông hiểu rõ cuộc sống chiến đấu đầy khó khăn nơi tiền tuyến. Bởi vậy, bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:

“Đêm nay rừng hoang sương muốI

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu – đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”. Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối” “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947. Cảnh rừng âm u buổi đêm như trở nên lãng mạn, đầy chất thơ, khi mà ở đó có hơi ấm tình người. Trời về khuya gần sáng, trăng xuống thấp dần, thấp dần đến khi trăng chạm vào đầu súng, tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt diệu “đầu súng trăng treo” ắp đầy ý nghĩa biểu tượng: súng tượng trưng cho người lính, cho tinh thần quyết chiến quyết thắng, cho sự chiến đấu hết mình không quản ngại hiểm nguy; còn trăng là sự vật xuất hiện nhiều trong thơ, là biểu tượng của người thi sĩ, của làng quê hiền hòa, của cái đẹp thanh bình, dịu dàng. Tính hiện thực đến từ cách quan sát, nhìn nhận của tác giả và chất trữ tình từ một tâm hồn thăng hoa càng làm cho hình ảnh thêm ý nghĩa, sống động: súng và trăng, là gần và xa, là cứng rắn và mượt mà, thực tại và mộng mơ, oai dũng và hiền hòa, là thi nhân và chiến sĩ. Súng và trăng còn là một cặp đồng chí: người lính cầm súng chiến đầu cho hòa bình, cho vầng trăng tri kỉ mãi tỏa ánh trăng trong trên nền quê hương. Hai hình ảnh đối lập tương phản này lại được nhà thơ đặt cạnh nhau, sóng đôi cùng nhau, và cũng lại cùng nhau tạo nên một biểu tượng đẹp trong thơ văn kháng chiến, thể hiện rõ bao phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: cứng cỏi trong chiến đấu nhưng lại hiền hòa trong đời thường, ý chí sắt đá kiên cường nhưng tâm hồn cũng rất thơ mộng, bay bổng. Hình ảnh trăng lơ lửng treo đầu súng cũng là lời kết của toàn bài thơ, và lời kết này có giá trị rất lớn: khẳng định vẻ đẹp chân thực của cuộc chiến vệ quốc, vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ Cách mạng, động thời làm giảm bớt đi cái ác liệt thảm khốc của chiến tranh, trở thành tiêu biểu của tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng. Đầu súng trăng treo - hình ảnh độc đáo và sáng tạo tuyệt vời. Hình ảnh trăng tròn vành vạnh lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Rất chân thực nhưng cũng rất lãng mạn, hư hư thực thực, một không gian đầy mộng tưởng mà vẫn mang vẻ đẹp tinh thần chiến đấu... Tình đồng chí, đồng đội đang dần toả sáng, rực rỡ trong gian lao chiến đấu. Ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính đầy lạc quan, yêu đời trong những câu thơ của Quang Dũng:

“Mắt trừng gưi mộng qua biên giới

 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đọc thơ Chính Hữu ta như cảm thấy hơi ấm đang toả ra khắp cơ thể, khắp không gian. Hơi ấm ấy phải chăng được bắt nguồn từ cảm xúc chân thành, mộc mạc, giản dị trong lời thơ Chính Hữu. Câu thơ cuối tuy đã khép lại tác phẩm nhưng với em nó mãi là dư âm không bao giờ cạn. Nó vừa mang nét mơ mộng thi ca lại vừa ngời sáng hiện thực cuộc sống nơi chiến trường khói lửa. Câu thơ vừa thực vừa ảo cho ta nhiều cảm xúc mới mẻ. Khoảng cách giữa bầu trời và mặt đất, giữa con người và thiên nhiên đã được xích lại gần gũi hơn bởi một từ treo. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và lãng mạn vừa xa vừa gần. Phải chăng câu thơ là ước muốn, là hi vọng của Chính Hữu – người lính Cụ Hồ về một cuộc sống hoà bình, tươi đẹp? Sau đêm nay, sau giờ phút căng thẳng, lạnh buốt này sẽ là một sớm mai ấm áp với ánh bình minh sáng ngời Người chiến sĩ, với nhiệm vụ đã thành người thi sĩ với bao cảm hứng dạt dào. Hình ảnh cây súng trong bài thơ Đồng chí khiến ta chợt nhớ đến sông Mã, Tây Tiến trong câu thơ của Quang Dũng: “Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”. Đáng trọng và đáng quí làm sao khi trong thời máu lửa oai hùng đó vẫn có những vần thơ thật hay, thật đẹp và thú vị đến thế!

Bước vào thế giới hội hoạ, người ta sững sờ trước bức chân dung nàng Mônalisa sinh đẹp. Lạc trong thiên đường âm nhạc, người ta say sưa thăng hoa cùng điệu nhạc Beethoven. Còn khi đến với địa hạt văn chương, người ta lại không khỏi cảm thán tài năng sáng tạo của các vị “phu chữ”. Trên khối đá từ ngữ, người nghệ sĩ đã đục đẽo nên một tấm áo choàng đẹp đẽ cho đứa con tinh thần mình vất vả hoài thai nên. Và Chính Hữu cũng vậy. Bằng những hình thức nghệ thuật đặc sắc, ông đã giúp người đọc “khám phá, cảm nhận hiện thực cuộc sống” qua một cách chân thực nhất. Với giọng điệu thơ trữ tình, giàu cảm xúc, ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn rất cô đọng, chứng tỏ sự gọt giũa cẩn thận của tác giả kết hợp với những hình ảnh liên tưởng lãng mãn sâu sắc, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, cảm động tình đồng chí vững vàng của các anh lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dẫu còn gặp nhiều khó khăn trắc trở, nhưng tình đồng chí của họ vẫn vượt lên hết thảy và trở thành tình cảm đẹp đẽ nhất, đáng trân trọng nhất giữa những người bộ đội. Tác giả Chính Hữu đã thể hiện chân thực hình tượng người người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc, giúp chúng ta “khái quát, cảm nhận hiện thực” một cách dễ dàng.  Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí. Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tình. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ. Lãng mạn nhưng không thoát ly, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam nhưng “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu vẫn là một nét chấm phá tuyệt đẹp trong kho tàng thơ ca dân tộc. Nó đã khắc hoạ rõ hơn những tháng năm chiến đấu oai hùng một thuở của tổ quốc và góp phần cất lên tiếng hát về một thế hệ anh hùng. 

Văn học từ thuở sơ khai đã mang mối duyên tình nặng nợ với trần gian, người nghệ sĩ phải gắn mình với hiện thực, láy nỗi niềm của bản thân trước thực tại để làm cảm hứng cho mọi trang viết. Là một bộ phận của văn chương, lẽ dĩ nhiên thơ ca cũng mang nợ tình ấy. Câu nói ở đề bài lại một lần nữa chứng minh cho điều đó. Ngôn ngữ trong văn học là phương tiện để biểu đạt hiện thực xã hội và hiện thực tâm hồn con người người đọc phải thâm nhập vào thế giới ngôn ngữ của tác phẩm để khám phá hiện thực được phản ánh. Thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung bao giờ cũng đi ra từ cuộc đời, cũng lớn lên từ hiện thực và rồi từ đó cánh diều nghệ thuật sẽ nhờ gió đời mà cất cánh bay cao. Sẽ “chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép” (Chế Lan Viên); “sẽ chẳng có thơ khi người làm thơ không tìm được sợi dây giao cảm đối với cuộc đời, không tìm đến những cánh đồng phì nhiêu để từ đấy hạt giống thơ ca được ươm trồng, nảy nở.” Lục Du đời Tống người đã viết hàng trăm câu thơ, lúc sắp mất đã tâm sự với con, lời tâm sự của một hồn thơ đi trọn cuộc đời mới hiểu cái lẽ “công phu của thơ là ở ngoài thơ”. Thơ ca và hiện thực đời sống cũng giống như nước đối với cây cối. Cuộc sống với những hiện tượng phong phú, phức tạp vừa là đối tượng hướng tới, vừa là nguồn mạch nuôi dưỡng văn học. Quay lưng lại với cuộc sống, mải mê với chuyện đúc chữ, luyện câu, mọi giá trị văn chương chỉ còn là kỹ xảo. Mỗi người nghệ sĩ đến với cuộc đời đều có một trách nhiệm riêng. Đã bao lần người ta “mang lấy số long đong” chỉ vì “dính vào duyên bút mực”. Thực ra, cầm bút đơn gainr lắm, họ chỉ cần biết viết, biết nghĩ mà thôi. Nhưng điều quan trọng của một người nghệ sĩ chân chính là họ biết cống hiến, biết trăn trở, biết đi đến vùng đất mới, biết sáng tạo và tạo nên những đứa con tinh thần không thể thay thế. Để làm được điều đó, mỗi người nghệ sĩ phải sống hết mình vì nghệ thuật, cầm bút bằng cả tấm lòng để tạo nên những tác phẩm có giá trị. Nghề nào cũng cao quý, nghề nào cũng thiêng liêng nhưng đến với nghề văn, anh phải đi sâu vào hiện thực, rung cảm với đời sống và tạo ra giọng riêng của mình. Mỗi tác phẩm cất tiếng khóc chào đời đều mang một sứ mệnh riêng của mình. Nhưng sứ mệnh đó chỉ được thực hiện nếu có cho mình một độc giả. Một tác phẩm văn học nếu thiếu đi sự cảm nhận, đồng sáng tạo của độc giả thì đó là sự “tự sát” trong văn chương. Người đọc mọi thời không chỉ góp phần làm đầy và khẳng định nội dung cho tác phẩm mà còn mang đến sức sống lâu bền cho trang văn trong đời sống chảy trôi không ngừng này. Bởi vậy, người đọc phải có cho mình một con mắt tinh tường để khám phá tác phẩm và một tâm hồn nhạy cảm để đồng điệu với tác giả.

Từng có ai đó đã trăn trở rằng: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Bởi vậy, hiện thực chính là mảnh đất màu mỡ cho thơ ca bén rễ sinh sôi. Không chỉ thơ ca, văn học nghệ thuật sẽ chỉ là những câu chữ xáo rỗng nếu không khiến chúng ta “khám phá, cảm nhận hiện thực”. Cuộc sống với hơi thở ấm nóng sẽ tô điểm cho những câu thơ, cho nghệ thuật: “Hãy nhặt lấy chữ đời mà góp nên trang” (Chế Lan Viên). Thơ ca khơi nguồn từ cuộc sống nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc đời, bóng dáng con người. Thơ mang trong mình những buồn vui đau khổ, rạo rực đắm say. Thơ nói riêng và văn chương nói chung sẽ làm nên nhịp cầu nôi trái tim trở về với trái tim, đưa tâm hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu. Thơ ca là cuộc đời nhưng thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn bóng hình cuộc sống. Và “Đồng chí” cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Có chăng vì thế mà đứa con tinh thần của Chính Hữu đã vượt qua sự băng hoại của thời gian và trở thành thi phẩm tiêu biểu trong văn học kháng chiến? Nói như Tố Hữu: “Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học”.

(Theo Hồn văn - Hồn người)

Xem thêm: Nâng tầm bài viết với 100 nhận định lý luận văn học về văn xuôi

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận