Vua Gia Long và giai thoại chim Hạc chỉ đường tìm đất quý xây thành
Người Việt thường có câu "đất lành chim đậu", câu chuyện chim Hạc chỉ đường cho vua Gia Long tìm thấy đất Thanh Hóa đúng là vùng "địa linh sinh nhân kiệt".
Vua Gia Long (tên húy là Nguyễn Phúc Ánh, tên thường gọi là Nguyễn Ánh). Ông là nhà chính trị, quân sự, vị vua sáng lập ra nhà Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1802 đến 1820, được truy tôn miếu hiệu Nguyễn Thế Tổ. Trong suốt thời gian trị vì, ông lấy niên hiệu là Gia Long, nên thường gọi là Gia Long Đế (vua Gia Long).
Xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của vua Gia Long cũng có không ít giai thoại, truyền thuyết. Nhưng có lẽ đáng nhớ và tò mò top đầu là câu chuyện chim Hạc giúp vua tìm đất quý.
Chim Hạc chỉ đường cho vua tìm đất quý xây thành
Theo Tri thức, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, tháng 6 năm Nhâm Tuất (1820), Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Nguyễn. Trong thời gian này, ông vẫn bồn chồn lo lắng về đất Bắc Hà - nơi có nhiều cựu thần nhà Lê.
Sau ngày đăng cơ, vua Gia Long bàn bạc chia đặt quan chức để cai quản 11 trấn Bắc Thành, bàn phép khoa cử nhằm chiêu mộ nhân tài, vỗ về sĩ phu đất Bắc.
Trước khi về triều, nhà vua đã ghé đến Nguyên miếu ở trong thành Triệu Tường (Thanh Hóa ngày nay) bái yết tổ tiên. Đồng thời, vua cũng muốn rời thành Tư Phố đến một nơi mới để đặt trấn lị của trấn Thanh Hóa, nhưng chưa tìm được vùng đất ưng ý.
Tương truyền vào một đêm nọ, bì mải suy nghĩ đến chuyện dời thành mà vua bồn chồn mãi chẳng ngủ được. Đến canh ba thì chợt đi vào giấc ngủ. Nhà vua nằm mộng thấy cánh cửa hành cung đột nhiên mở tung. Một người mặt mũi khôi ngô, tay dài quá gối, mình như mình hạc, vóc như vóc tiên, toàn thân áo quần trắng muốt tiến đến sụp lạy trước mặt vua mà tâu:
"Biết bệ hạ đang trăn trở tìm địa điểm dời thành Tư Phố, Thần Bạch Hạc phái tôi đến giúp bệ hạ việc này. Ngày mai khoảng giữa giờ Thìn xin bệ hạ theo tôi định đất. Đó là nơi bền vững muôn đời, loạn có thể giữ, bình có thể trị, dẫu sau này có lần đổ nát nhưng lại hoàn như Châu về Hợp Phố".
Vua Gia Long toan hỏi thì người đó chẳng thấy đâu nữa, chỉ thấy ánh sáng hòa quang mềm mại tựa ánh trăng ngàn uyển chuyển bay qua rèm cửa, dìu dịu mùi hương thơm kỳ lạ lan tỏa khắp nhà.
Ngay sau đó vua tỉnh giấc mới biết vừa nằm chiêm bao nhưng lại rất thật, vua liền hỏi: "Thần Bạch Hạc là vị thần nào, phải chăng đây là Thần Chim Lạc mà cha ông xưa đã thờ, là Chim Tổ, loài linh điểu giang cánh bay trên trống đồng?”.
Sau đó, vua kể chuyện này cho các đại thần rồi truyền lệnh sẵn sàng xe ngựa chờ Thần linh ứng, giữa giờ Thìn hễ có người mặc áo trắng đến thì lập tức đón vào bái kiến. Mọi người tuân lệnh, ai cũng chăm chú quan sát con đường đến Nguyên miếu xem có ai mặc áo trắng không. Nhưng đến giờ Thìn vẫn chưa thấy gì cả.
Đến đúng giữa giờ Thìn từ trên không bất ngờ có tiếng chim vọng xuống, vua cùng mọi người ngước lên trời nhìn. Một con chim Hạc trắng to lớn khác thường cứ bay lượn trước sân như ngụ ý chờ đợi.
Vua thấy vậy liền lên xe, chim Hạc kêu to mấy tiếng rồi bay đi trước. Nhà vua và cận thần cứ thế theo phía sau. Đến một vùng đất mới có rất nhiều đầm nước xanh biếc, chim Hạc ngừng cánh bay hạ xuống trước xe nhà vua rồi gật gật đầu. Vua chưa kịp mở lời thì Hạc đã bay đi mất.
Nhà vua phóng tầm mắt ra xa thì thấy đây quả là nơi sơn thủy hữu tình. Núi sông như đặt bày trên đồng nội bãi mật. Phía Đông có dãy Linh Trường và dãy Trường Lệ làm án. Tả có long sơn long thủy, hữu có hổ phục hổ chầu. Đây chính là vùng đất mà vua tìm kiếm bấy lâu.
Vui mừng khôn xiết, nhà vua chỉ tay xuống đất dõng dạc bảo các quần thần: “Ta sẽ dựng thành ở chính nơi này. Toà thành đó sẽ gọi là thành Chim Hạc".
Vị trí này thuộc làng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, nay đã được sát nhập với TP Thanh Hóa nên thành sau này còn được gọi là thành Thọ Hạc.
Năm 1804, vua Gia Long hạ chiếu chỉ di dời lị sở của trấn Thanh Hoá từ làng Dương Xá, xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa đến làng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, đồng thời tiến hành xây dựng thành trấn lị.
Đôi nét về kiến trúc Hạc thành
Hạc thành được xây dựng theo hình lục lăng, có hào quang bao quanh mặt ngoài. Thành mở 4 cửa: cửa tiền phía Nam, cửa hậu phía Bắc, cửa tả phía Đông Nam, cửa hữu phía Tây Nam. Trong thành là nơi ăn ở, trị vì của các quan đầu tỉnh.
Nói về kiến trúc Hạc thành, sách Đồng Khánh dư địa chí mô tả như sau: "hành ở địa phận xã Thọ Hạc huyện Đông Sơn. Thành xây bằng gạch đá, chu vi 630 trượng (2.961m), cao 1 trượng (4,7 m), có 4 cửa, hào rộng 9 trượng 3 thước, sâu 7 thước. Các vệ Tuyên Vũ, Hùng Vũ, Nhuệ Vũ bao vòng phía trước; Quảng Vũ, Nghĩa Vũ bao vòng phía sau; Túc Vũ, Công Vũ bao vòng bên trái; Trang Vũ, Kiện Vũ, Cương Vũ bao vòng bên phải. Đồn thuỷ quân ở địa phận Nam Ngạn, hai vệ Tả, Hữu đóng ở đây. Đàn Xã tắc ở phía Tây Bắc thành. Đàn Tiên Nông ở phía Đông Nam thành. Đàn Sơn xuyên ở phía Tây Nam thành. Văn miếu ở phía Đông Bắc thành. Miếu Hội đồng ở phía Nam thành. Vũ miếu ở phía Tây thành. Học xá ở phía Nam thành. Trường thi ở phía Đông Bắc thành".
Thành Thọ Hạc được xây dựng theo kiến trúc Vauban lục lăng, là kiểu phòng ngự rất lợi hại. Kiểu thành này trước đây đã được áp dụng khi xây thành Diên Khánh (Khánh Hòa). Danh tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu hai lần đem binh vây đánh Diên Khánh nhưng phải rút lui, thiệt hại nhiều nhưng không sao chiếm được.
Thành này còn mang hơi hướng của thành Gia Định (hay thành Bát Quái) trong Sài Gòn. Đây là ngôi thành được xây dựng vào năm 1790 theo kiến trúc Đông - Tây kết hợp, đóng vai trò quan trọng về chính trị, quân sự, địa lý của vùng Gia Định trong một thời gian dài. Sau khi xây dựng, quân Tây Sơn đã không cố gắng để chiếm thành một lần nào nữa, giúp cho Nguyễn Ánh có được một lợi thế nhất định.
Tóm lại: Theo sử cũ, vùng đất mà chim Hạc chỉ cho vua Gia Long là vùng đất quý, đất địa linh sinh nhân kiệt. Sử gia Phan Huy Chú từng tới Thanh Hóa và đã viết rằng: "Thanh Hóa mạch núi cao vót; sông lớn lượn quanh, biển ở phía Đông, Ai Lao sát phía Tây, Bắc giáp trấn Sơn Nam, Nam giáp đạo Nghệ An. Núi sông rất đẹp, là một chỗ đất có cảnh đẹp ở nơi xung yếu. Các triều trước vẫn gọi là một trấn rất quan trọng. Đến Lê lại là nơi căn bản. Vẻ non sông tốt tươi chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quý, cũng khác mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường; vượng khí chung đúc nên xứng đáng đứng đầu cả nước" (Theo Lịch triều Hiến Chương Loại Chí).
Nhận xét của Phan Huy Chú không quá chút nào. Bởi Thanh Hóa chí là vùng đất sinh đế vương, có thể kể đến như Bà Triệu, Dương Đình Nghệ, Lê Đại Hành, Lê Lợi, Nguyễn Ánh.
Xem thêm: Vua Gia Long và những hiểu biết khiến người phương Tây ngả mũ thán phục
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận