Voi trong bang giao và niên hiệu
Sử nhà Lý cũng nhiều lần ghi chép việc các vị vua đi săn, bắt voi. Đời Lý Thái Tông, niên hiệu Thiên Thành năm thứ 5 (1032), mùa thu, tháng 9, Toàn thư chép việc vua đi châu Lạng xem bắt voi, rồi từ châu Lạng trở về. Đến năm 1041, mùa thu, tháng 9, vua cũng ngự đến Kha Lai để bắt voi.
Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải) khi phiên dịch và chú giải Toàn thư, chú thích rằng địa danh được ghi âm Hán là Khai Lai, âm Việt là Kẻ Lại nhưng không rõ ở đâu.
Sau sự kiện đó, sử chép "vua ngự đến Kha Lãm, rồi về Kinh sư" thì các dịch giải chú thích rằng: Kha Lãm hay Cổ Lãm, Phủ Lãm, âm Việt là Kẻ Xốm, trước thuộc huyện Thanh Oai, nay thuộc về thị xã Hà Đông, Hà Nội. Như vậy, chuyến đi bắt voi này của vua Lý cũng không quá xa kinh đô.
Trong chiến dịch đánh Chiêm Thành năm 1044 đại thắng, quân đội Đại Việt bắt được 30 con voi của nhà Chiêm Thành. Đến năm sau, sử chép, vua Lý Thái Tông sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm (Hồ Tây ngày nay), lấy con voi của Chiêm Thành làm mồi nhử voi rừng vào trong ấy, vua thân đến bắt.
Ngoài voi, nhà Lý còn đem biếu nhà Tống ở phương Bắc nhiều loại thú lạ. Thời Lý Thái Tông, năm 1034, châu Hoan dâng con thú một sừng, không rõ là thú gì, nhà vua sai Viên ngoại lang Trần Ứng Cơ và Vương Văn Khánh đem biếu nhà Tống.
Đến thời Lý Thánh Tông, năm 1057, lại sai sứ sang biếu nhà Tống con thú, gọi là lân. Tuy nhiên, quan nhà Tống là Tư Mã Quang nói: "Nếu là con lân thực mà đến không phải thời, cũng chẳng lấy gì làm điềm tốt; nếu không phải là con lân thực, thì làm cho người phương xa chê cười. Xin hậu thưởng cho sứ giả, rồi bảo đem về".
Lời nói của Tư Mã Quang, nhà sử học xuất sắc, tác giả bộ sử nổi tiếng "Tư trị thông giám" rất chí lý, nên chắc chắn Vua Tống Nhân Tông nghe theo. Tư Mã Quang từng giữ chức Ngự sử trung thừa, có trách nhiệm can gián nhà vua.
Đặc biệt, cuối năm 1068, khi châu Chân Đằng dâng 2 con voi trắng, vua Lý Thánh Tông đã đổi niên hiệu là Thiên Huống Bảo Tượng, tức là trời ban voi quý. Như vậy, chữ "Long" là rồng, chỉ có chữ "Tượng" là voi xuất hiện trong các niên hiệu của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Năm 1079, châu Lạng lại dâng voi trắng. Năm 1119, Vua Lý Nhân Tông ngự ở Khoái Trường để bắt voi trắng. Năm 1123, vua Nhân Tông cũng ngự đến Long Thủ hải để bắt voi, tức Thác Bờ ở Hòa Bình ngày nay. Đây có lẽ là nơi nhiều voi nên năm 1152, Vua Lý Anh Tông cũng ngự đến bắt voi trắng, khi bắt được, các quan đều dâng biểu mừng.
Lấy voi đổi đất
Sử chép, năm 1076, Quách Quỳ đem quân xâm lược nước ta nhưng bị danh tướng Lý Thường Kiệt đánh tan trên phòng tuyến sông Như Nguyệt. Quách Quỳ lui về biên giới, chiếm giữ châu Quảng Nguyên của ta.
Năm 1078, vua Lý Nhân Tông sai Đào Tông Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi và xin trả lại các châu Quảng Nguyên, cũng như những người ở các châu ấy bị bắt đi trước đó. Từ các cuộc thương lượng này, nhà Tống trả châu Quảng Nguyên cho ta, mà trước đó họ đã đổi tên thành Thuận Châu.
Bàn về sự kiện này, sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng có chép: "Ban đầu Giao Chỉ (chỉ nước ta) sang cống, xin trả lại các châu Quảng Nguyên, nhà Tống hẹn nếu trả hết dân Tống bị ta bắt chước đó sẽ như lời. Năm sau trả người về 3 châu, bèn trả lại Thuận Châu". "Tống sử" cũng chép rằng nước ta trả cho họ 215 người, sau đó nhà Tống trả lại cho ta 4 châu và 1 huyện bị Quách Quỳ chiếm, tức Quảng Nguyên, Tư Lang, Môn, Tô Mậu, Quảng Lang.
Đến năm 1084, Thị lang Bộ Binh Lê Văn Thịnh lại lên trại Vĩnh Bình bàn định với người Tống về chuyện biên giới của hai động Vật Dương, Vật Ác. Hai bên thống nhất việc nhà Tống trả tiếp cho ta 6 huyện, 3 động. Người Tống tiếc đất mới đặt ra hai câu thơ "Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim".
Về chuyện này, Tống sử chép: "Bèn lấy đất ngoài 8 ải là 6 huyện Bảo Lạc và 2 động Túc Tang cho Càn Đức (tức Vua Lý Thánh Tông)". Vua Tống Thần Tông đã gửi sắc cho vua Lý, có đoạn nói: "Về hai động Vật Dương, Vật Ác, trẫm đã giáng chỉ lấy 8 ải sau này làm giới hạn: Canh Liệm, Khẩu Cự, Khiếu Nhạc, Thông Khoáng, Canh Nham, Đốn Lị, Đa Nhâm, Câu Nan. Đất ngoài các ải ấy có 6 huyện Bảo Lạc, Luyện, Miêu, Đính, Phóng, Cấn và 2 động là Túc, Tang, các đất ấy đều cho khanh thủ lĩnh".
Có khi, cùng với voi, nhà Lý biếu thêm nhà Tống cả tê giác. Như năm 1118, Viên ngoại lang là Nguyễn Bá Độ và Lý Bảo Thần đem sang biếu nhà Tống 2 con tê giác trắng và đen cùng 3 con voi nhà. Năm 1122 Viên ngoại lang là Đinh Khánh An và Viên Sĩ Minh lại đem voi nhà biếu nhà Tống.
Không phải lúc nào việc đem voi sang biếu nhà Tống cũng suôn sẻ. Như vào tháng 11 nhuận năm 1126, khi Nội thư gia là Nghiêm Thường, Ngự khố thư gia là Từ Diên đem 10 con voi nhà và vàng bạc, sừng tê sang biếu nhà Tống để tạ ơn việc bắt Mạc Hiền, tiểu thủ lĩnh châu Quảng Nguyên trốn sang Ung Châu trước đó.
Thường và Diên đến Quế phủ (Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây) vào ra mắt ty Kinh lược, viên Kinh lược bảo rằng: "Năm nay ở Đông Kinh và các xứ Hồ Nam, Đình Châu, Lê Châu đều đã đem binh mã đi đánh nước Kim, chưa biết lúc nào về. Trong lúc này thì ngựa phu trạm dọc đường chỗ nào cũng ít, xin sứ giả đem lễ vật về". Thường và Diên phải quay về.
Xem thêm: Chân dung 4 bà Thái hậu tạo sóng gió, góp phần khiến nhà Lý sụp đổ, giang sơn rơi vào tay họ Trần