Truyền thuyết rợn người về thuật luyện cổ trùng và thảm án vu cổ thời Hán Vũ Đế
Luyện cổ trùng là 1 trong 3 tà thuật bí ẩn, kinh dị nhất. 1 con trùng nhỏ có thể người ta phát điên, chết bất đắc kỳ tử. Các triều đại phong kiến Trung Hoa đều xem việc luyện trùng là trọng tội, phải nhận hình phạt nặng nề.
Cổ trùng là ai?
Nếu bạn là tín đồ của phim cổ trang Trung Quốc thì chắc chắn sẽ thấy xuất hiện cụm từ "luyện cổ trùng". Luyện trùng xuất hiện trong các bộ phim cung đấu, nó giống như một cách để tranh đoạt quyền vị ở chốn hậu cung. Thậm chí, cổ trùng còn được biết đến là khi liên quan đến hai thảm án hậu cung kinh hoàng ở thời nhà Hán. Hiện nay ở xứ Trung vẫn lưu truyền các truyền thuyết liên quan đến cách luyện cổ trùng - 1 trong 3 tà thuật kỳ bí nhất Trung Quốc (cản thi, cổ trùng, lạc hoa động nữa).
Vậy cổ trùng là gì? Trùng (Hu) hay Cổ Trùng, Độc Trùng (Jincan) là một loại chất độc được sử dụng thường xuyên ở khu vực Nam Việt cổ (bao gồm lãnh thổ phía nam Trung Quốc và phía Bắc Việt Nam). Theo truyền thuyết, nọc độc của trùng được chiết từ các loài động vật có chất kịch độc như rắn, rết, nhện...
Điều kinh dị nhất là trước khi kịch độc được chiết ra thì những con vật kể trên sẽ được cho vào trong 1 chiếc lọ. Ở đây chúng sẽ tự tàn sát lẫn nhau. Con nào còn sống sẽ là con có chất kịch độc khủng khiếp nhất.
Cũng theo truyền thuyết, cổ trùng được sử dụng trong các nghi thức, tà lễ, bùa phép, có thể gây bệnh tật, chết chóc. Thậm chí hồn của trùng có thể nhập vào các loài động vật khác.
Theo Sohu, người Miêu ở Tương Tây (Trung Quốc) từ xưa vẫn nổi tiếng nuôi cổ trùng. Cổ thuật này được đồn đại rất thần thông quảng đại. Chỉ một con sâu nhỏ cũng khiến cho người ta phát điên, hoặc mạnh hơn thì khiến toàn thân thối rữa. Có ghi chép nói rằng, có nhiều loại cổ trùng và cách dùng khác nhau, tùy thuộc vào "tay nghề" của người luyện và mục đích sử dụng.
- Loại đầu tiên là "kim tằm" sống trong dạ dày;
- Loại thứ hai là loại được cho vào vạc và ăn thịt những con vật khác như đã đề cập bên trên, sau đó chúng biến thành yêu tinh, quỷ hồn;
- Loại thứ ba là hơi nóng và âm khí có thể làm hại tới người ống. Người Trung Hoa xưa tin rằng, độc trùng có thể lây lan qua một làn sương hoặc một hơi thở.
- Loại thứ tư là trùng có thể biến hóa thành động vật, côn trùng, phổ biến như chó, rắn hoặc lợn. Vì thế, nạn nhân không thể phát hiện ra chúng thực sự là gì.
- Một loại trùng khác được lưu truyền trong truyền thuyết là loại được nuôi bởi phụ nữ, với mục đích quyến rũ đàn ông.
Truyền thuyết rợn người về cổ trùng
Tương truyền, từ nhiều thế kỷ trước ở vùng đất nọ có người tên Vương Hán là thương nhân buôn vải, vì không gặp thời nên buôn đâu lỗ đó, nợ nần chồng chất. Đang trong tình cảnh túng thiếu thì có Lưu tiên sinh - vốn là bằng hữu của cha Vương lúc sinh thời tới thăm.
Biết ông Lưu là người giỏi về phong thủy bùa chú nên Vương xin ông giúp mình nuôi cổ trùng để cải mệnh. Tuy nhiên ông Lưu từ chối. Khi Vương năn nỉ mãi không được liền nhắc: "năm xưa tiên sinh từng được cha tôi cứu mạng, tới nay vẫn chưa báo đáp, chẳng lẽ quên ơn rồi?".
Nghe đến đây Lưu tiên sinh không còn cách từ chối đành giúp Vương Hán. Suốt mấy ngày liền Lưu tiên sinh đi bắt về rất nhiều trùng độc, cùng bỏ vào trong 1 hũ dành để chúng cắn xé lẫn nhau. Trải qua nhiều trận chiến, con trụ lại cuối cùng là hung hãn nhất, độc nhất.
Lưu tiên sinh lại nuôi con trùng này bằng các loại cỏ độc, đồng thời mỗi ngày kêu Vương tự nhỏ 1 giọt máu vào hũ cho trùng uống. Sau 49 ngày thì con trùng chết, Lưu tiên sinh bảo Vương Hán bỏ xác nó vào một cái lư hương, đặt ra bàn thờ như tổ tiên, tới đếm mà phát ra ánh sáng màu lục nhạt, ấy là đã thành công. Xong việc, Lưu tiên sinh cáo biệt.
Từ hôm đó, Vương có thể cảm ứng được lời nói của cổ trùng, cũng có thể trao đổi với nó, nhờ nó giúp đỡ chuyện làm ăn. Cổ trùng yêu cầu Vương Hán mỗi ngày cũng cho nó 2 quả trứng gà, Vương Hán làm theo, tới khi cúng xong mang xuống thì thấy 2 quả trứng tuy không bị vỡ nhưng phần lòng đỏ và trắng bên trong đã biến mất.
Trong nhiều tháng tiếp theo, Vương Hán quả nhiên làm ăn phát đạt, buôn đâu trúng đó, chuyện gì cũng suôn sẻ. Cổ trùng lại yêu cầu Vương Hán cúng cho nó mỗi ngày 2 con gà sống. Vương Hán làm theo. Đến khi cúng xong ra dọn lễ thì chỉ còn thấy 2 nhúm lông gà ở đó.
Nhờ sự hỗ trợ của cổ trùng 1 năm sau Vương Hán trở thành đại phú hào trong vùng, làm ăn ngày một phát đạt. Lúc này cổ trùng lại yêu cầu hắn xây cho nó 1 linh đường lớn, đèn nến thắp liên tục không để tắt, hương khói lúc nào cũng nghi ngút. Việc này tuy có phần tốn kém nhưng Vương Hán vẫn chấp nhận yêu cầu, răm rắp làm theo.
Lại thêm nửa năm nữa, cổ trùng tiếp tục đưa ra yêu cầu: "Nay ta ăn thịt gà đã ngán lắm rồi, ngươi hãy mang trẻ con về cho ta ăn". Nghe đến đây Vương Hán không đồng ý. Song nếu không đáp ứng thì cổ trùng sẽ ăn thịt con gái hắn.
Lúc này, Vương Hán mới hiểu trùng ấy vô cùng đáng sợ, nó không bao giờ giúp không công. Chính vì thế Vương liền đem cái lư hương đựng xác trùng ném xuống sông. Nào ngờ lúc quay về nhà thì đã thấy cái lư hương đó nằm yên trên bàn thờ, xác trùng cũng ở yên trong đó. Vương Hán sợ quá lại chất củi đốt cái lư hương nhưng củi cháy hết lư hương vẫn nguyên, xác trùng vẫn ở đó.
Lúc này cổ trùng giận dữ nói: "Ta là vô hình trong không gian này, ngươi không thể hại ta được. Ta đã giúp ngươi giàu có, nay ngươi lại không đáp ứng yêu cầu của ta, có phải muốn chết không?”. Vương Hán tuy tham lam nhưng không có ý muốn hại người, bèn khẩn cầu cổ trùng cho hắn thư thả mấy ngày để nghĩ cách.
Cổ trùng hạn cho Vương Hán sau 3 ngày mà không mang trẻ con về thì sẽ ăn thịt cả nhà hắn. Vương biết đại họa sắp ập đến bèn tới nhà Lưu tiên sinh cầu cứu. Lúc này Lưu tiên sinh đã mắt đã mù, ngũ quan biến dạng vô cùng xấu xí.
Vương Hán thấy vậy liền hỏi nguyên nhân thì Lưu tiên sinh đáp: "Người tạo ra cổ trùng là trái với đạo Trời, tất yếu phải chịu quả báo này! Nếu không vì báo đáp ơn cứu mạng của cha ngươi, ta tuyệt đối không làm chuyện thương thiên hại lý ấy”.
Vương Hán cũng đem chuyện của mình kể cho Lưu tiên sinh nghe mong ông chỉ cách giải thoát khỏi nó. Lưu tiên sinh đáp: "Lòng tham của người ta không có đáy nên không bao giờ chịu an phận, mới sinh ra đủ chuyện trái ngang. Ngươi vì muốn cải mệnh mà thành, nay cũng vì muốn cải mệnh mà bại. Ngươi đâu có biết rằng con trùng kia đã lấy đi rất nhiều tinh hoa của ngươi, nay nếu khử nó đi ta chỉ sợ số mệnh ngươi cũng không thọ”.
Thấy Vương Hán kiên quyết, Lưu tiên sinh gật đầu bảo hắn ôm cái lư hương đựng cổ trùng đi với mình đến miếu Thành hoàng, khấn xin Thành hoàng ra tay tương trợ trừ tài. Sau khi khấn xong, Lưu tiên sinh bảo Vương Hán mang cái lư hương chôn sau miếu.
Quả nhiên, lần này cổ trùng không còn cái gì thoát ra nữa. Lưu tiên sinh thở dài nói: "Cổ trùng ở dưới đất không được thờ cúng, sau 49 ngày sẽ tự tiêu biến đi, lúc đó cái mệnh đen đủi sẽ lại quay về với ngươi, còn cộng thêm nghiệp chướng đã tạo lần này”.
Quả nhiên, tháng sau Vương Hán làm ăn thua lỗ, gia sản tiêu tán. Không lâu sau thì mắc bệnh lạ, tay chân không nhúc nhích được. Từ đó chỉ nằm một chỗ như người thực vật, nhiều năm trôi qua vẫn không chết.
Lưu tiên sinh tuy mù lòa mà thỉnh thoảng vẫn đến thăm, lần nào cũng thở dài: “Đây là do tinh hoa trên thân Vương Hán đều bị cổ trùng lấy đi cả rồi, khiến hắn sống không bằng chết, chỉ có thể như vậy trọn đời chứ không thuốc thang nào chữa được đâu”.
Cách luyện cổ trùng theo sách "Thông chí lục thư lược"
Kết cục luyện cổ trùng đáng sợ như vậy nhưng vẫn có không ít vu sư liều mạng nuôi. Tương truyền, trùng luyện thành có linh khí lớn, giúp chủ nhân vạn sự hanh thông, đường quan lộ, làm ăn rộng mở, muốn gì được nấy và để sát hại kẻ thù.
Trong "Thông chí lục thư lược" tác giả Trịnh Triều đời nhà Tống có ghi chép: Người xưa tạo cổ trùng bằng cách đem tất cả những loại côn trùng có độc, bỏ vào một cái vại, để cho chúng cắn xé lẫn nhau. Sau cùng con độc trùng còn sống sót duy nhất sẽ được gọi là “cổ”, gọi là “cổ mẫu”.
Dân gian tương truyền, người nuôi cổ trùng thường chọn ngày mùng 5 tháng 5 Âm lịch (Tết Đoan Ngọ) để luyện chế độc trùng. Bởi ngày đó là ngày độc khí thịnh nhất. Trong ngày đó, các loại trùng độc sẽ mạnh mẽ nhất, độc tăng nhanh nhất.
Trong sách "Thông chí lục thư lược" miêu tả chi tiết về cách nuôi trùng như sau: Dùng 100 loại trùng để nuôi, mà ban đầu chỉ cần 12 loại. Trước khi nuôi trùng, người trong gia đình phải dọn sạch sẽ chính sảnh, già trẻ gái trai đều phải tắm sạch sẽ, thành tâm thành ý dâng hương đốt trước bài vị tổ tông, im lặng khẩn cầu với quỷ thần thiên địa.
Tiếp đó đào 1 cái hố to ở chính giữa sảnh chôn 1 vại lớn xuống đất, vại này phải có miệng lớn mới tiện cho việc thêm nắp. Hơn nữa nếu miệng vại nhỏ thì sẽ không nhìn thấy được tình hình bên trong, mọi người sẽ càng dễ nảy sinh sợ hãi với thứ trong đó, và bởi vì sợ hãi mà sẽ sinh ra kính sợ. Miệng vại phải được lấp bằng với nền đất.
Đến Tết đoan ngọ thì người nhà cần ra đồng tùy ý bắt 12 loại côn trùng đem về (nếu không phải bò sát bắt vào ngày Đoan Ngọ thì sẽ không thể nuôi thành “cổ”) đặt trong vại đã chôn, sau đó đậy nắp lại.
Những con trùng bắt về thường là rắn, rết, bọ cạp, ếch, giun, sâu lông cánh xanh, bọ ngựa... tóm lại ngoại trừ các sinh vật biết bay, những sinh vật có 4 chân biết chạy. Sau đó, lấy 12 loại trùng này bỏ vào trong vại, tất cả lớn nhỏ trong nhà mỗi đêm trước khi ngủ đều phải khấn vái 1 lần, không được bỏ ngày nào. Thê, nữa, khi luyện trùng tuyệt đối phải giữ bí mật. Nếu cho người ngoài biết thì vu sư dùng yêu thuật sẽ thu đi hoặc "cổ trùng" sẽ quay lại hại chủ.
1 vòng 1 năm những con trùng này sẽ cắn xé lẫn nhau. Con độc nhất nhiều sẽ ăn con độc ít, con mạnh sẽ ăn con yếu. Cuối cùng chỉ có 1 con duy nhất sống sót. Còn này sau 11 ngày ăn những con trùng khác, bản thân sẽ thay đổi hình thái cùng màu sắc.
Theo truyền thuyết, con trùng mạnh nhất chủ yếu có 2 loại: Một loại là “Long cổ”, hình dạng giống như rồng, có thể là rắn độc, rết biến thành; Một loại gọi là “Kỳ lân cổ”, có lẽ là ếch hoặc thằn lằn biến thành...
Tiếp đó chủ nhân sẽ đào vại lên rồi cất trong 1 căn phòng ít không khí, ít ánh sáng. Nghe nói "cổ" thích ăn mỡ heo cùng trứng chiên, các loại cơm nên người luyện sẽ chuẩn bị cho chúng. Sau khi chăn nuôi 1 năm, “cổ” ước chừng dài hơn một trượng, chủ nhân sẽ chọn một ngày cát lợi mở nắp vại để cho “cổ” bay ra ngoài.
"Cổ" sau khi rời nhà, đôi lúc có thể biến thành hình dáng giống 1 quả cầu lửa, đi quanh quẩn trong núi. Có lúc có thể biến thành bóng đen, thường tới lui trong những ngôi nhà trong thôn. Khoảng thời gian ma lực của “cổ” đạt lớn nhất là hoàng hôn.
Mỗi lần sau khi "cổ" về nhà vẫn ở trong vại, chủ nhân cũng không cần cho nó ăn. Theo truyền thuyết, cái hay của việc luyện cổ trùng là muốn mượn linh khí của “cổ”, khiến cho người nuôi “cổ” làm bất cứ chuyện gì cũng rất thuận lợi. Nếu như chủ nhân muốn buôn bán kinh doanh, mượn linh khí của “cổ” có thể một vốn vạn lời. Nếu như chủ nhân muốn thăng quan, mượn linh khí của “cổ” có thể thẳng tiến lên mây xanh. Trái lại, nếu như có chút sơ suất để “cổ” làm hại người bị người khác biết mà mời vu sư đến tịch thu “cổ”, chủ nhân nuôi “cổ” sẽ gặp nhiều chuyện xui xẻo, cả nhà đều chết.
Gia đình luyện cổ trùng trừ những ngày thường phải thành kính hầu hạ ra thì đến ngày 24 tháng 6 Âm lịch hàng năm phải làm lễ tế long trọng cho “cổ”. Lễ tế này kéo dài 3 ngày (24, 25, 26). Trong các ngày này, mỗi ngày chủ nhân đều phải dùng một con heo, một con gà, một con dê tươi sống sau đó nấu chín. Đến khi tối trời đầy sao, cả nhà đem các lễ vật bỏ vào vại. Sức ăn của cổ trùng rất lớn, ma lực rất cao.
Lúc tế cùng người ngoài không được tham gia, cũng không được hé lộ ra bên ngoài. Nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng của bản thân. Ngoại trừ cách “Tụ trùng hỗ giảo” (để nhiều loại trùng ở cùng một chỗ cho chúng tự ăn nhau), các loại độc cổ đặc thù sẽ có phương pháp chế tạo khác nhau.
ở phía Bắc Trung Hoa xưa còn lưu hành một hình thức luyện cổ khác, được gọi là "dưỡng ngao". Về bản chất, dưỡng ngao cũng giống như nuôi cổ trùng, chỉ khác là phương pháp cổ thuật này dùng đến loài chó chứ không dùng côn trùng. Theo đó, nếu chó mẹ sinh được 9 chó con, cả 9 con chó này sẽ bị nhốt vào một phòng kín. Để sống sót và sinh tồn, những con chó này sẽ cắn xé lẫn nhau. Con chó sống sót sau cùng sẽ được gọi là “ngao”.
Thảm án vu cổ thời nhà Hán Vũ Đế
Trong lịch sử Trung Hoa, các thảm án liên quan đến "cổ trùng" không phải con số ít. Các triều đại Trung Hoa cho rằng việc dùng cổ thuật, nuôi cổ trùng, cổ sức bị coi là "trọng tội", phải nhận hình phạt vô cùng nặng nề. Mục "tặc đọa luật" trong Đường luật sơ nghị có ghi: "Kẻ tạo súc cổ độc (nuôi bất kể con gì dùng làm cổ thuật hại người) đều bị xử giảo (treo cổ)”.
Tỏng cuốn “Đại Thanh luật lệ” trong phần “Hình luật” cũng ghi rõ: “Chế tạo, giấu vật độc, trùng độc, kẻ dùng hay kẻ giấu đều bị xử trảm”. Cũng bởi vậy mà số kẻ thực sự có khả năng dùng “cổ” thì ít, nhưng người bị vu vạ thì nhiều vô số kể.
Thế nhưng không ít vu sư vẫn âm thầm nuôi cổ trùng để phục vụ mục đích riêng của mình, ví dụ bán kiếm lời hoặc dùng để trả thù... Những thảm án kinh hoàng nhất liên quan đến cổ trùng xuất hiện vào thời nhà Hán. Trong có có 2 thảm án liên quan đến Hoàng tộc dưới thời Hán Vũ đế.
Năm xưa, Hán Vũ Đế thành hôn với Hoàng hậu Trần A Kiều - con gái công chúa trưởng Lưu Phiến khi chưa tới tuổi trưởng thành. Tình cảm hai bên mặn nồng. Hán Vũ Đế thường xuyên lui tới cung của A Kiều sau khi tan triều, cùng nàng tận hưởng những giây phút quấn quýt bên nhau.
Nhưng về sau, Hán Vũ Đế dần phai nhạt tình cảm với Hoàng hậu, phần vì phi tần cung nữ ngày một nhiều, phần vì sống chung nhiều năm hai người không có con nên sợi dây liên kết bị dãn ra.
Đến năm 139 trước Công nguyên, Hán Vũ Đế đem lòng si mê mỹ nhân Vệ Tử Phu. Điều này khiến Trần A Kiều và gia tộc họ Trần vô cùng tức giận, ra sức tìm cách hãm hại mỹ nhân này.
Cùng từ đây, Trần Hoàng hậu bắt đầu sa vào con đường tà thuật. Bà liên tục uống nhiều phương thuốc bí truyền để mong có thể đậu long thai. Đồng thời còn nhờ người đồng cốt Sở Phục giúp mang thai, nguyền rủa Vệ Tử Phu.
Đến năm 130 trước Công nguyên, có người tố cáo Trần Hoàng hậu dùng cổ thuật, chuyện bùa yểm từ đó bị phát giác. Vụ án kết thúc bằng việc Trần A Kiều mất ngôi Hoàng hậu, bị giam vào lãnh cung, Sở Phục bị xử tử, kéo theo đó là 300 người có liên quan đều bị xử tử.
8 năm sau, Hán Vũ Đế lại gặp 1 vụ việc nghiêm trọng liên quan đến cổ trùng. "Vu cổ chi họa" xảy ra trong những năm Chính Hòa được xem là vụ án về cổ thuật nổi tiếng nhất trong lịch sử nhà Hán.
Theo đó, vào năm 92 trước Công nguyên, vì tin vào điềm báo mộng, Hán Vũ Đế liên tục điều tra về những vụ án có liên quan đến cổ thuật. Khi đó, vợ chồng Thừa tướng đương triều là Công Tôn Hạ bị phát giác sử dụng vu cổ.
Vụ án này khiến họ Công Tôn phải chịu họa diệt môn. Đồng thời liên lụy đến những thành viên khác trong tộc họ Lưu. Trong đó có 2 người con gái của Vệ Hoàng hậu là Dương Thạch công chúa và Chư Ấp công chúa.
Hán Vũ Đế tiếp tục mở rộng điều tra, giao trọng trách cho sủng thần Giang Sung. Trước đó, Giang Sung từng có lần đắc tội với Thái tử Lưu Cứ. Thấy Hán Vũ Đế tuổi đã cao, họ Giang sợ Lưu Cứ lên ngôi thì bản thân sẽ gặp họa nên tìm cách ám hại Thái tử.
Nhân lúc nỗi sợ về cổ thuật đang ám ảnh Hán Vũ Đế, Giang Sung liền bí mật tố cáo rằng có người mong Hoàng thượng chết sớm, dùng thuật vu cổ để yểm hại nhà vua.
Vào tháng 7 năm 91 trước Công nguyên, Giang Sung tìm đến cửa cung của Vệ Hoàng hậu và Thái tử, rêu rao rằng nơi này có bùa yểm. Lưu Cứ sợ Giang Sung hại mẹ con mình, nghe theo lời của Thái phó Thạch Đức, liền bắt Sung và mang quân chiếm cứ các vị trí trọng yếu trong kinh thành Trường An. Hán Vũ Đế đang dưỡng bệnh, nghe tin Thái tử làm loạn thì vô cùng tức giận, hạ lệnh vây bắt con trai mình. Sau cùng, Lưu Cứ bị thua, phải tự sát trong uất ức, Vệ Hoàng hậu cũng buộc phải tự vẫn, 3 hoàng tử và 1 công chúa khác đều bị xử tử.
Xem thêm: Truyền thuyết rợn người về thuật cản thi dẫn dắt người quá cố tha hương trở về quê nhà ở Trung Quốc
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận