Chuyện chưa kể về nạn cờ bạc trong sử Việt

Cờ bạc giống như một loại chất gây nghiện, nó gieo ảo tưởng giàu sang khiến vua u mê, quan lại bỏ bê công việc... Kết cục khuynh gia bại sản, vua mất ngôi, vương hầu xóa tên khỏi sổ tôn thất, thậm chí có kẻ mất mạng.

Đỗ Thu Nga
09:00 18/01/2022 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Quan to nhờ luật, vua suýt mất nước vì cờ bạc

Việt sử lược có ghi lại: Vào năm Kỷ Hợi (1179) thời vua Lý Cao Tông đã “Cấm việc đem cá, muối và các đồ dùng bằng sắt lên tận đầu nguồn để trao đổi nhau mà đánh bạc” cho thấy dạo ấy tệ cờ bạc đã làm cho người ta đắm đuối lắm.

Sang thời Trần, Hưng Đạo Vương trong Hịch Tướng sĩ đã cảnh báo đánh bạc là 1 trong những cái tệ có thể khiến từ quân tới tướng sao nhãng việc binh bị, giảm lòng yêu nước: “Có kẻ lấy việc chọi gà làm thú, kẻ thì lấy việc đánh bạc làm vui, có kẻ chăm ruộng vườn để nuôi dưỡng gia đình, có kẻ vì quyến luyến vợ con mà sinh ra ích kỷ, chăm chú sản nghiệp mà quên việc nước…”.

Quan lại nhà Trần dẫu biết luật nước trị rất nghiêm hành vi đánh bạc với mức án tử, nhưng không phải ai cũng lấy đó làm khiếp sợ. Có quan to như Trần Khắc Chung Đại Việt sử ký toàn thư cho hay rất nhờn luật: “Thường hay đánh bạc với học sĩ Nguyễn Sĩ Cố, có khi đến hai, ba ngày, đánh thâu đêm suốt sáng, ngồi ngay trên giường đánh bạc mà húp cháo, không nghỉ lấy một chút. Được thua chỉ một hai quan tiền mà dụng tâm khổ sở như vậy”.

Nhà Trần dùng hình phạt rất nghiêm khắc với tội đánh bạc là thế nhưng sau này, chính vua Trần lại phạm luật, nêu gương xấu từ người trị nước đến nỗi tệ nạn đánh bạc lan tràn khắp thiên ha. 

Chuyen-chua-ke-ve-nan-co-bac-trong-su-Viet-0

Cụ thể, năm ấy là năm Nhâm Dần (1362) đời vua Trần Dụ Tông, “Vua lại tập hợp số người nhà giàu có trong thiên hạ như ở Đình Bảng thuộc Bắc Giang, làng Nga Đình thuộc Quốc Oai Vào cung đánh bạc làm vui. Một lần đặt là 300 quan, ba lần đã gần nghìn quan rồi” khiến đời sau Phan Phu Tiên phê phán “Phép nhà Trần nghiêm cấm đánh bạc như vậy mà đến đời Dụ Tông còn công nhiên buông thả, chiêu nạp những người nhà giàu vào cung đánh bạc. Về sau người trong nước bắt chước không thể cấm được”. 

Mà đâu chỉ thế, tệ đánh bạc, ham chơi của vua không chỉ làm hư phong hóa, mà nó còn góp phần "rút cuộc vì tệ đánh bạc mà dẫn đến mất nước [ý chỉ mất ngai vàng - Người dẫn chú]”.

Vào thời Lê sơ khi vua Lê Tương Dực ở ngôi, có Hình bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Nguyễn Vũ (người làng Từ Liêm, nơi đất Thăng Long) dẫu làm quan to nhưng có tật xấu thích trò đỏ đen, hay đánh bạc và uống rượu ở ngay trong nội điện nên bị người đời coi khinh. 

Sau này dạo Lê Trung hưng vào năm Mậu Dần (1698), lúc ấy trong nước, mà cụ thể là Đàng Ngoài, quan dân nhiều kẻ đánh bạc kiểu “ý tiền” (lối chơi này con bạc đặt tiền kín). Tệ ấy phổ biến nơi thành thị và ngày càng trở nên thịnh.

Thấy thực trạng ấy, triều đình ra lệnh dò xét. Nơi Đàng Trong, Nguyễn Nhạc vôn trước khi nổi lên ở Tây Sơn làm chức Biện lại, cũng vì đánh bạc mà tiêu mất tiền công.

Vào năm Ất Dậu (1825) thời Nguyễn, Tế tửu Quốc tử giám là Phan Bảo Đĩnh cho rằng cái tệ ham đỏ đen khiến cho “từ Thanh Nghệ trở ra Bắc, quan sinh ra tham nhũng, lại sinh ra gian giảo, học trò đều bỏ học, dân đều thất nghiệp làm cướp làm giặc, phần nhiều bởi đó mà ra”. 

Trong 10 điều giáo huấn năm Giáp Ngọ (1834), vua Minh Mạng chỉ rõ “gần đây, những lũ vô lại hoặc dẫn đạo bằng tà giáo, hoặc dụ dỗ uống rượu, đánh bạc”. Thậm chí đến người mô phạm làm thầy cũng không làm gương cho trò, như trường hợp năm Canh Thìn (1820), Đốc học Gia Định Cao Huy Diệu cùng học trò đánh bạc khiến vua chê trách “sư phạm mà như thế thì mong thành tựu được nhiều người chẳng cũng khó lắm sao!”.

Các triều đại xưa trị tội cờ bạc thế nào?

Để nghiêm trị tội cờ bạc, các triều đình xưa có chế định luật lệ cụ thể. Cứng rắn nhất là vào thời Trần, dùng biện pháp nặng đối với tội danh này là xử tử. 

Bằng chứng còn sót lại ghi trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết là tháng 3 năm Bính Thân (1296), Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì phạm tội đánh bạc mà bị đánh trượng đến chết vì làm quan nhưng không nêu gương tốt.

Khi lập triều đại mới, vua Lê Thái Tổ tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1429) đã lệnh ngăn cấm cờ bạc bởi những kẻ du thủ du thực thường hay tụ tập hoặc uống rượu, hoặc đánh bạc làm hại đến phong tục. Thấy hiện trạng đó, CƯơng mục có ghi vua liền ra lệnh “đánh bạc, bị chặt ba đốt ngón tay, đánh cờ vây, bị chặt một đốt”.

Cũng trong thời Lê Sơ, Toàn thư cho hay năm Kỷ Tỵ (1449), con Thiếu úy Lê Lan là Lê Nhân Lập cùng với người bọn Lê Thọ Vực đánh bạc và trộm cướp. Sau vì lo sợ bị phát hiện mà dụ đồng đảng đến nhà rồi giết người diệt khẩu. Nhưng lưới trời lồng lộng, việc bị phát giác, cả bọn bị giam vào ngục và sau đó đem ra chợ Tây kinh thành Thăng Long xử tử. Riêng Thiếu úy Lê Lan làm quan không biết dạy con bị phạt biếm chức. 

Về sau vua Lê Thánh Tông định ra, Quốc triều hình luật. Luật này Chương Vi chế (Làm trái pháp luật) có Điều 92 và 93 quy định tội đánh bạc phạt 70 trượng, phạt ba quan tiền, quan thì bị biếm ba tư. Người tổ chức, kẻ tái phạm tăng phạt một bậc. Tiền đánh bạc sung công. Đánh cờ tướng mà đánh bằng tiền tội cũng như tội đánh bạc.

Thời Lê Trung hưng, Đại Việt sử ký toàn thư có chép việc năm Quý Mão (1663), vua Lê Huyền Tông cấm quan lại và nhân dân không được đánh bạc. Hai năm sau lệnh này được nhắc lại. Năm Mậu Dần (1698) có lệnh kẻ nào chứa đánh bạc và con bạc đều bị phạt nặng bằng tiền. Số tiền phạt tùy vào phẩm trật của quan viên mắc tội: Tam thái, Tam thiếu, tả hữu đô đốc, Thượng thư, Đô đài, Ngự sử là những chức to chứa người đánh bạc phạt 500 quan; con bạc phạt 500 quan. Quân và dân nếu chứa thì phạt 30 quan, đánh bạc phạt 20 quan.

Các chúa Nguyễn ở Đàng Trong dẫu chưa có luật nhưng cũng cấm đánh bạc. Đại Nam thực lục có chép: Năm Bính Ngọ (1726), chúa Nguyễn có lệnh cấm. Nguyễn Ánh trong thời gian bôn ba và chiến tranh với Tây Sơn, nhiều lần răn cấm quan quân không được đánh bạc.

Chuyen-chua-ke-ve-nan-co-bac-trong-su-Viet-6
Vua Gia Long

Dưới thời vua Gia Long, Hoàng Việt luật lệ cũng chỉ rõ "đánh bạc mà mở sòng đánh được thua to thì có tội, còn khi nhân lúc rỗi đánh chơi làm vui thì pháp luật cũng không cấm”. 

Hoàng Việt luật lệ trong Chương Tạp phạm có Điều 3 ghi về tội cờ bạc. Theo đó tội đánh bạc ăn tiền phạt 80 trượng, tiền, đồ vật bắt được, thậm chí nhà cửa dùng làm nơi đánh bạc cũng sung công. Riêng quan chức đánh bạc mức nặng hơn với cái lý “Quan chức mà đánh bạc thì làm sao trị được người nên xử tăng một mức, phạt 90 trượng”. 

Trong Quốc triều chánh biên toát yếu cho hay vua Gia Long năm Giáp Tuất (1814) ra lệnh ở Nam Kỳ, ai mở sòng bài sẽ có tội vì cho rằng nạn cờ bạc sinh ra nạn trộm cướp. Trước đó năm Kỷ Tỵ (1809) Lưu thủ Quảng Nam là Tôn Thất Huyên dung túng cho quân đánh bạc bị giáng chức làm Cai cơ.

Ở các đời vua Nguyễn sau, nhiều kẻ phạm luật bị nghiêm trị. Thậm chí có cả án lệ như thời vua Thiệu Trị năm Nhâm Dần (1842) có tên lính ở dinh Vũ Lâm là Phạm Văn Đạt mở sòng dụ người đánh bạc, lại cãi nhau với người, đương đêm hò la, đã bị xử tội giảo giam hậu (tội chết xử treo cổ nhưng còn giam lại chờ thi hành). 

Năm Nhâm Thân (1872), Tôn Thất Dao hay lêu lổng, uống rượu đánh bạc, răn dạy cũng không chừa liền bị xóa tên trong sổ Tôn thất, đổi theo họ của mẹ.

Xem thêm: Sử Việt có 1 ông vua được lên ngôi do thời cuộc đưa đẩy, sau lại bị ép trả ngai vàng cho cháu, đó là ai?

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận