"Học lỏm" 7 bài học kinh doanh thần sầu từ ĐH Harvard: Áp dụng đúng, thực chiến thành công

Một cây viết có tiếng đã tham gia khóa học kinh doanh trực tuyến từ ĐH Harvard, sau đó đúc kết 7 bài học kinh doanh thần sầu.

"Học lỏm" 7 bài học kinh doanh thần sầu từ ĐH Harvard: Áp dụng đúng, thực chiến thành công

Một cây viết có tiếng đã tham gia khóa học kinh doanh trực tuyến từ ĐH Harvard, sau đó đúc kết 7 bài học kinh doanh thần sầu.

Richard Feloni là một cây viết có tiếng của Business Insider về đề tài kinh tế. Anh từng tham gia một khóa học kinh doanh trực tuyến của ĐH Harvard, sau đó đúc kết ra 7 bài học kinh doanh thần sầu. Anh cho hay, từ những bài tập tình huống sát với thực tế, học viên sẽ được cung cấp kiến thức nền tảng cũng như chiến thuật kinh doanh hữu ích. Dưới đây là 7 bài học anh đã đúc kết sau khóa học:

Người chiến thắng cũng có thể là kẻ thua cuộc

Điều này rất đúng khi nhìn các buổi đấu giá, khi mà thông tin là điều tối quan trọng. Một người tham gia phiên đấu giá mà không nắm rõ giá trị món hàng thì họ chiến thắng là tất nhiên, miễn là họ có nhiều tiền.

Feloni lý giải, việc một người định giá món hàng thấp hơn giá trị thực của chúng và người trả đúng giá trị của món hàng có một điểm chung là chúng chẳng mang về cho họ chút lợi nhuận nào (thặng dư = 0). 

Nhưng họ đều không thắng đấu giá. Người sở hữu món đồ chỉ vì trả giá cao hơn không hẳn là người thắng, bởi có thể họ đã định giá món hàng quá cao. Trong trường hợp này, không những không có lợi nhuận, họ còn bị “thâm hụt” do phải trả cao hơn giá trị thật của sản phẩm.

Những bộ sản phẩm quá tối ưu thường lãng phí

Chắc hẳn chúng ta đã từng mua trọn bộ một gói sản phẩm nào đó mà không hề biết rằng có những thứ chúng ta không thực sự cần. Chẳng hạn, bạn cần dùng Microsoft Word và Excel, nhưng lại nghĩ rằng có thể mình sẽ cần Power Point hay thêm nữa. Thế là, bạn mua một bộ sản phẩm Microsoft Office vì thấy như vậy sẽ hời hơn. Nhưng thực tế, có vô số ứng dụng bạn sẽ không dùng tới, chẳng hạn như OneNote hay Access.

Cái hay của việc kinh doanh gói sản phẩm này là nó tối đa hóa doanh thu cho doanh nghiệp không phải vì nhu cầu thực sự của khách hàng, mà vì sở thích của họ. Microsoft đã chiến thắng nhờ chính sách phân biệt giá, khi mà họ bán hàng hóa giống nhau với các mức giá chênh lệch và ưu đãi khiến bạn nghĩ là mình "hời".

Giá trần và giá sàn có thể chỉ làm phức tạp hóa vấn đề

Năm 2012, nước Mỹ bị tàn phá nặng nề bởi  siêu bão Candy, khiến nước này rơi vào tình trạng khan hiếm nhiên liệu. Người dân đổ xô đi mua nhiên liệu, các nhà bán lẻ xăng dầu lại "đội giá", khiến nguồn cung càng eo hẹp. New York là nơi bị ảnh hưởng bởi điều này, khiến hàng ngàn người dân phải xếp hàng dài chờ mới mua được nhiên liệu.

Ngay sau sự việc đó, Chính quyền bang New York đã phải ban hành đạo luật “Chống giá cắt cổ” (anti-price gouging law) nhằm ngăn chặn tình trạng này. Mức “giá trần” được đặt ra. Đây là mức giá cao hơn giá cân bằng (giá sàn – là giá trị mà tại đó lượng cung sẽ bằng lượng cầu) và các công ty không được tăng vượt mức giá này.

Dù vậy, mức giá trần không thỏa mãn nhu cầu thu lời của các công ty ở bang khác. Vì thế, họ không đủ động lực để vận chuyển xăng xầu tới bán cho người dân ở New York. Tình trạng khan hiếm kéo dài, dẫn đến việc xảy ra xô xát, tranh cãi.

Trường hợp giá trần, giá sàn không có tác dụng cũng xảy ra tương tự đối với mức lương tối thiểu, khi chính quyền quyết định áp mức giá sàn (giá tối thiểu) cho một thị trường lao động có độ co giãn. Khi đó, đã có nhiều công nhân chấp nhận làm tăng ca để được trả thêm tiền, dẫn đến tình trạng dư thừa sức lao động và kéo theo tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.

Chi phí cố định không được tính vào định giá sản phẩm

Chi phí cố định như tiền thuê nhà, đầu tư trang thiết bị sẽ không bị ảnh hworng tới việc định giá sản phẩm. Nó có thể ảnh hưởng đến quyết định sáp nhập hay tiếp tục kinh doanh của công ty, nhưng không phải là giá cả.

Chẳng hạn, nếu bạn bỏ ra 300.000 USD để mở một quán cà phê và bán một ly cà phê với giá 2 USD thì bất cứ khoản tiền nào kiếm được từ 2 USD cũng là lợi nhuận. Vì thế, nếu bạn quyết định hạ giá bán ly cà phê thấp hơn 2 USD (để cạnh tranh với đối thủ khác) thì con số 300.000USD ban đầu cũng không "ảnh hưởng" gì, chỉ có mức lợi nhuận mà bạn kiếm được bị giảm đi thôi.

Do đó, chi phí cố định không được lấy làm cơ sở để định giá sản phẩm. Giá bán sản phẩm được xác định dựa trên chi phí sản xuất (như nguyên vật liệu, bao bì, nhân công…).

Mẫu ngẫu nhiên đáng tin hơn

Khi bạn đang đo lường mức độ tác động của một biến số với vấn đề nào đó, thì mức trung bình mẫu sẽ có phân phối chuẩn (còn được gọi là Đường cong chuông), theo Định lý giới hạn trung tâm. Dù vậy, thực tế không ai lại tốn nhiều thời gian và nguồn lực để khảo sát một lượng lớn mẫu và ngồi tính toán trung bình.

Thay vì vậy, với độ tin cậy khoảng 95%, từ giá trị trung bình một số mẫu đã có, ta sẽ tính được độ lệch chuẩn của mức trung bình dân số. Nếu không đi sâu vào toán học thì đây là cách chúng ta có thể tự tin xác định phạm vi các giá trị được tính từ một mẫu.

Khấu hao tài sản và giá trị hàng tồn kho không phụ thuộc vào tình hình kinh doanh

Khi một nhà máy tậu được bộ máy sản xuất mới, thì công ty phải tìm cách tính giá trị khấu  hao (tức là khấu hao tài sản). Có 2 cách để làm điều đó:

- Khấu hao heo phương pháp đường thẳng: Mức khấu hao hằng năm sẽ không thay đổi trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản.

- Khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh: Chi phí được ghi nhận trong những năm đầu sẽ nhiều hơn so với những năm sau đó.

Giá trị hàng tồn kho cũng được tính tương tự, với 2 phương pháp:

- Nhập trước, xuất trước (FIFO): Sản phẩm được nhập vào kho lâu nhất sẽ được tính là xuất đầu tiên.

- Nhập sau – xuất trước (LIFO): Hàng hóa nhập kho gần nhất sẽ được xuất ra trước.

Dòng tiền lưu thông hé lộ sức khỏe công ty

Những thông báo về dòng tiền của công ty sẽ hé lộ "sức khỏe" của công ty đó. Đó cũng là cách mà các nhà đầu tư "sành sỏi" như Warren Buffett xác định đâu là công ty mà họ nên đầu tư cổ phiếu. Dưới đây là một số yếu tố:

– Khởi nghiệp: Thông thường dòng tiền trong giai đoạn này sẽ đi ra, “đổ” vào công việc kinh doanh, đầu tư bên ngoài cùng hoặc chi trả cho những biến động lớn trong ngành tài chính.

– Sinh lãi (Giai đoạn tăng trưởng): Lượng tiền mặt thu được từ hoạt động kinh doanh sẽ “chảy” vào ngân sách công ty, đồng thời dòng tiền sẽ chuyển ra bên ngoài tiếp tục đổ vào dự án đầu tư, hay mất mát do những biến động tài chính.

– Mở rộng vốn (Giai đoạn ổn định): Tương tự như giai đoạn tăng trưởng, tuy nhiên lúc này sẽ có một ít dòng vốn ra khỏi công ty dành cho việc đầu tư, thay thế thiết bị đã cũ và lượng tiền mặt đổ vào hoạt động tài chính bên ngoài cũng nhiều hơn (dùng để trả các khoản vay hoặc chi trả cổ tức cho cổ đông).

– Thoái vốn (Giai đoạn suy giảm): Lúc này công ty đang trong giai đoạn suy giảm nên dòng vốn thường lưu thông ra bên ngoài nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh, đồng thời sẽ có thêm dòng vốn chảy vào công ty nhờ những hoạt động đầu tư (ví dụ: bán tháo các tài sản không dùng đến), và dòng vốn lưu thông ra-vào từ những hoạt động tài chính (nhiều khả năng công ty không tìm những khoản vay mới hoặc gặp khó khăn trong việc trả lương cho nhân viên).

Theo DNSG

Xem thêm: Nhìn đứa trẻ tập đi, tỷ phú ngông Richard Branson ngộ ra 3 bài học kinh doanh thần sầu