Chuyện ở ‘thiên đường đá cỏ’ Tân Lập – Ký của Nguyễn Đình Ánh
Nhắc đến thầy cúng Vàng A Chứ (còn gọi là ông Chứ cúng) thì không chỉ ở Sơn La và một số tỉnh Tây Bắc mà mãi tận bên Lào cũng có người biết.
Bãi đá dựng ông Chứ cúng
Tôi làm bạn với Vàng A Tùng, người dân tộc Mông, qua một số anh em làm công tác thị trường ở tỉnh Sơn La. Dòng họ Vàng A ở đất Tân Lập huyện Mộc Châu này có uy tín với dân bản từ xưa tới giờ. Ngày trước, khi văn hóa và y tế còn mãi dưới xuôi chưa mở mang tới bản, các lối về đều là lối mòn, dắt trâu, bò, ngựa thồ đi mãi thì thành đường, người trong bản mỗi bận gọi nhau đi rừng phải theo nhóm để đề phòng thú dữ. Mọi thứ bệnh ngoài việc dùng lá rừng tự khắc chế thì còn nhờ ông Chứ cúng truy đuổi tà ma, xem hướng gia trạch, cầu cho bệnh ách tiêu tan. Con nuôi của ông lên đến mấy chục người…
Ông Chứ cúng sinh hạ được bốn người con trai: Vàng A Vừ (1971), Vàng A Tùng (1977), Vàng A Vẳng (1983) và Vàng A Chúng (1986). Ở tại bản giờ chỉ còn Vàng A Vừ và Vàng A Tùng. Mãi cho đến khi chuẩn bị về với tổ tiên, trong suốt mấy năm kể từ 2015, ông Chứ cúng mới chọn con trai cả là Vàng A Vừ theo hầu giá để truyền dạy lại toàn bộ nghi thức tế bái. Điều này là tuyệt mật, không thể có người thứ ba biết được.
Trong cuộc đời của mình, ông Chứ cúng cũng đã kịp tạo tác tên của mình gắn với địa danh của rừng thẳm, hom sâu. Chả là cùng với dân bản, ông đã khai hoang vỡ hóa nhiều khu đất rộng lớn, phát cây rẫy cỏ tạo nên một vài trang trại, tổng cỡ ngót chục héc-ta. Nhờ biết phong thủy, trước khi nhắm mắt xuôi tay ông bàn giao cho các con và dặn kỹ: Không bao giờ được bán hoặc sang nhượng cho ai dải đất linh thiêng này, nhất là nơi có hai “tảng đá kỳ quan, thần diệu”. Khu đất ấy được mang tên núi đá dựng ông Chứ cúng.
Thiếu hiểu biết mà mắc vòng lao lý
Tiếng khèn không chỉ chiếm được cảm tình của hầu hết người Mông mà còn làm say đắm những ai từng thích lắng nghe thứ nhạc rất tình này. Ở độ tuổi “bẻ gãy sừng trâu”, trong lễ hội mùa xuân năm 1995, Vàng A Tùng treo nỏ sau lưng và vác khèn băng rừng đi dự hát đối mãi tận Chiềng Hát. Dẫu phải vượt qua hàng chục con núi vẫn thấy dư sức co duỗi đôi chân trần để vừa nhảy vừa nhấp nháy ngón tay trên khuông, vút lên những khúc bổng trầm như mây bay, như suối chảy, như gọi mời…
Mùa Thị Khúa là hoa khôi của hội xuân năm ấy đã không thể chớp mắt khi ngắm nhìn thân hình vạm vỡ, nét hào hoa rạng ngời bên những vũ điệu tràn đầy quyến rũ trong bập bùng ánh lửa men say nơi Vàng A Tùng. Ngay lập tức hai đứa phải lòng nhau và đã thành đôi trước khi trời sáng. Thế là trời biết, đất biết, ông thầy Vàng A Chứ biết và hoan hỷ chứng nhân cho hạnh phúc của cặp đôi này. Vàng A Chứ còn dự báo rằng thứ nam của ông sẽ làm nên đại nghiệp trong nay mai…
Dạo ấy ở dải đất này số đông người già và thanh niên vẫn dùng thuốc phiện. Dân bản vẫn trồng giấu trên nương, sử dụng như một loại thần dược thông dụng chữa bách bệnh. Cứ đau mỏi, ho hắng, mề đay… mà dùng thuốc phiện và kết hợp với cúng bái nữa thì bệnh mấy cũng sẽ thuyên giảm.
Vàng A Tùng là một trong số những thanh niên quảng giao, được theo cha đi đây đi đó vài lần cho nên khá thành thạo đường ngang ngõ tắt từ các nơi về bản. Do vậy, vô tình đã trở thành một mắt xích trong đường dây buôn bán ma túy mà bản thân cũng chưa nhận thức được rằng tham gia công việc này là vi phạm pháp luật, sẽ lĩnh án tù tội rất nặng. Vài lần Tùng đưa hàng trót lọt, lại rủng rỉnh tiền tiêu, chẳng thế mà chỉ trong một thời gian ngắn đã cưỡi trên con xe máy đẹp nhất bản.
Cho đến một ngày của năm 2001, Công an tỉnh Sơn La và huyện Mộc Châu phối hợp giăng mẻ lưới túm gọn Tùng cùng đồng bọn đang vận chuyển mấy chục “tép” ma túy trên đường và bị khép án 17 năm cải tạo giam giữ. Tùng còn nhớ như in hình ảnh 2 đứa con trai kháu khỉnh được vợ dắt và bế đến nghe tòa tuyên án. Con trai lớn Vàng A Lý khi đó tròn 5 tuổi, Vàng A Thanh mới cai sữa còn đang ẵm ngửa. Lòng đau quặn, Tùng hứa sẽ cải tạo thật tốt để hoàn lương, sớm về với vợ con. Còn Mùa Thị Khúa nước mắt ngắn dài động viên chồng…
Với bản tính thật thà, chất phác, cộng thêm khéo tay nhất trong số những trại viên về chế biến món ăn, là “người đồng bào” mà dạ vâng đâu ra đấy, Vàng A Tùng mau chóng lấy được lòng tin từ cán bộ giám thị trại giam. Rõ ràng là tù nhân mới mà đã được tự do đi lại, được ủy quyền lo liệu mua sắm đồ ăn thức uống và nấu nướng phục vụ các trại viên. Cũng nhờ thế, mỗi năm qua đi mức khoan hồng lại được xem xét, giảm dần thời gian thụ án… Thấm thoắt cũng đã hơn 9 năm trôi qua, Tùng mãn hạn cải tạo, được trở về quê.
Hoàn lương nuôi giấc mộng tảng đá kỳ quan
Trước lúc từ biệt trại giam, Tùng còn đem theo một cây cuốc nhỏ cán gỗ, chạy ra góc nương sắn đầu đường đào bới và lôi lên một loạt vỏ chai thủy tinh bên trong chứa rất nhiều tiền lẻ với đủ các loại mệnh giá. Đó chính là số tiền tiết kiệm mỗi ngày đi chợ mua đồ ăn. Khó để có thể tưởng tượng sau hơn 9 năm thụ án, nó đã lên tới con số ngót 100 triệu đồng. Ba lô tiền trên vai, quần áo cũ bỏ hết, qua chợ sắm vài bộ trang phục mới, Tùng thong thả về bản với vẩn vơ ý nghĩ rằng sẽ lên kế hoạch chi tiết làm lại cuộc đời, sẽ bù đắp tình cảm bấy nay xa cách với vợ…
Quê hương hôm đó thật đẹp, trải vàng miên man màu hoa cải khắp các lòng thung. Một màn sương mỏng quện vào khói bếp nhà ai bao phủ tít tắp hai hàng cây rợp lối về, thứ sương mù “đặc sản” Tân Lập trừ những ngày bén nắng. Đường đi lối lại nhiều đoạn được nâng cấp bằng bê tông, từng đoàn các cháu nhỏ tan trường nom thật dễ thương, có điều đứa nào và là con nhà ai thì Vàng A Tùng không thể nào đoán ra được nữa. Ngót 10 năm cơ mà, nếu một đứa nhỏ được sinh ra từ ngày đó thì bây giờ cũng đã cuối cấp tiểu học rồi còn gì?! Mơ màng nghĩ mà chân dạo tới cổng nhà tự lúc nào không hay…
Cái ba lô tiền, chính cái ba lô tiền khi mở ra đã làm Mùa Thị Khúa tá hỏa, tưởng chồng lại tái buôn thứ thuốc phiện độc hại kia. Vàng A Tùng phân bua: Mẹ mày khi lên thăm trên trại không nghe thấy cán bộ luôn hết lời khen ngợi về cái sự cải tạo rất nghiêm túc của tôi hay sao? Tôi đã thề với trời rằng sẽ không bao giờ tái nghiện và sẽ làm lại cuộc đời theo cách của mình. Đây chính là số tiền tiết kiệm suốt gần 10 năm của tôi, tôi muốn vợ chồng mình tính toán xem nên đầu tư vào thứ gì cho hiệu quả… Mùa Thị Khúa nghe vậy mới tạm an lòng.
Suốt bấy lâu Vàng A Vừ được thừa hưởng nếp nhà gỗ ba gian trong trang trại, ngay chân núi đá dựng Ông Chứ cúng, thấy em về, đã động viên làm thêm một lán gỗ nữa để sớm hôm cùng nhau canh tác. Hai anh em họ mua bò giống, dê vằn, lợn đen, ngan, gà các loại về thả. Từ dạo đó, trang trại ấm hơi người, rộn tiếng các loại vật nuôi…
Ghé tai Vàng A Tùng, tôi tranh thủ “phỏng vấn” về thu nhập hiện tại. Tùng “khai” rằng: Thu nhập từ hai nguồn chính: Một là chăn nuôi gia súc, gia cầm, người dưới xuôi lên mua tận nơi, không đủ số lượng để bán, mỗi năm đem về hơn 100 triệu. Một là rừng mận và su su ngoài cho tặng thì cũng đem về hơn 100 triệu nữa. Với hai vợ chồng em thế là vừa đủ bởi các cháu xây dựng gia đình sớm, ra ở riêng cũng đã biết tự lo…
Tôi cùng nhóm anh em cũng đã vài lần tiếp xúc với Tùng, đúng khí tiết con người H’mông, tính thẳng băng: Chẳng mấy khi các bác lên chơi để em vào trại bắt con lợn về thịt. Khi khác là cặp ngan suối hãm tiết canh. Lần sau nữa lại cặp gà chạy bộ… Cứ rượu vào là Tùng đem khèn ra thổi, nhón chân múa ngay mặt chiếu dưới sàn rất hồn hậu: Điệu này là hát xuân tán gái, điệu này là mừng được mùa ngô… Đôi bận tửu lượng vút cao, chủ nhà lên phản nằm quay vào trong tường ngủ một mạch, khách về chào mỗi Mùa Thị Khúa…
Tuy thế, cho đến khi cảm nhận thấy sự chân tình từ anh em tôi, Vàng A Tùng mới cởi lòng: “Gia đình còn đang sở hữu mấy trang trại rất rộng, tất cả đều chỉ cách nhà vài kilomet thôi. Trong đó, “đặc sản” là toàn đá… các bác ạ! Bố em hồi còn sống cứ dặn đi dặn lại, dẫu có nghèo không được bán…”.
Câu chuyện bỗng trở nên hấp dẫn lạ thường, tôi “gạ” muốn được “mục sở thị” những trang trại đó. Tùng đồng ý, mời cả đoàn lên xe còn hai anh em gia chủ thì đi xe máy chạy trước dẫn đường. Nghiêng ngả, lắc lư qua mấy đoạn đường hẹp đủ lọt bánh xe rồi phải dừng và đi bộ tiếp một quãng dài. Thi thoảng lại thấy một bức ngăn bằng các loại cây to hoặc phên gỗ bắc qua rãnh nước, tôi hỏi Tùng: “Chỗ này cứ như “biên giới” ý nhỉ?”. “Dạ, đúng rồi bác. Chẳng rõ từ bao giờ địa danh đã được phân chia, “lãnh địa” nhà ai thì nhà đó thả bò và chăn nuôi dê, gà… Không ai lấy của ai bao giờ. Chỉ việc đeo cho các con vật nuôi cái mõ ở cổ để nhận biết vị trí chúng nó kiếm ăn, tối tự biết về chuồng…”, Tùng nói.
Hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Suốt cả chặng đường xuất hiện hai bên vô cùng nhiều những rặng đá nối tiếp nhau nổi lên trên những thảm cỏ, những bụi cây hoa mua, những vạt mận hậu. Từng đàn trâu, bò, dê nhẩn nha gặm cỏ.
Bỗng, tôi nhìn thấy cả một con thuyền dài cỡ gần chục mét nằm chỏng chơ bên lối mòn mới quay sang gặng hỏi Vàng A Tùng: “Sao lại có thuyền trên núi thế này em?”. “À, bác không biết đấy thôi, ở đây, nếu mưa liền hai, ba ngày thì ngay lập tức sẽ trở thành một hồ nước lớn mênh mông. Các loại súc vật tự chạy lên vách núi cao trú ẩn, chỗ này đầy các loại cá tràn về, các gia đình tha hồ vung lưới, đánh những mẻ cá nặng tay… treo gác bếp ăn dần”, Tùng trả lời.
Lách qua lớp dây leo dần để lộ ra một lối mòn. Tùng đi trước, dùng tay rút con dao dắt trong bao gỗ sau lưng phát quang mấy gốc chuối rừng và loạt dây leo chằng chịt hé lộ hình thù một tảng đá to lơ lửng sườn núi. Tôi ngước lên và không thể chớp mắt trước một… kỳ quan.
Trước mắt tôi là một tảng đá hình hài thiên tạo hơi vát nhưng tổng thể khá tròn, đè trên một tảng đá phía dưới, nó như trực lăn xuôi theo chiều dốc núi. Tôi bò quanh một vòng quan sát: Tảng đá chỉ đặt vỏn vẹn ba tiếp điểm trong khoảng đường kính 60cm mà có thể ngồi bất động hàng ngàn năm ở vị trí này sao? Vàng A Tùng nói rằng hồi khai hoang mấy chục năm trước bố em đã phát hiện và thấy nó như thế rồi. Nhiều đêm mưa, sấm chớp đì đùng, em nằm trong lán mà giật bắn mình khi nghe tiếng đá lăn từ trên núi xuống. Bụng bảo dạ, chắc là tảng đá đó lăn xuống rồi, nhưng sáng ra trông lên vẫn thấy sừng sững…
Còn chuyện nữa rất ly kì em kể chắc bác sẽ thấy rất khó tin. Tảng đá này cũng chính là nơi bố em – ông Chứ – cúng chọn làm lễ trời tại đây và đã cứu sống rồi nhận làm con nuôi những mấy chục người. Người ta chỉ cần cắt một cái thủ lợn, to hay nhỏ cũng được, đặt lên mâm xôi tế trời và thần đá là bố em sẵn sàng ra tay giúp họ cải vận. Tôi gặng hỏi, vậy bây giờ Vàng A Vừ kế nghiệp ông Chứ cúng liệu có làm được điều tương tự như thế không? Tùng trả lời: Dạ, có!
Và, để minh chứng cho những thắc mắc của tôi, Vàng A Vừ đã chạy xuôi dốc, nhảy qua những ụ đá xuống lán lấy lên một quả trứng gà. Vừ vừa đặt quả trứng, miệng vừa lẩm nhẩm câu gì đó như thần chú. Ô, lạ thật, bất cứ điểm nào kể cả trên đầu nhọn mọc lên từ những hốc đá đều có thể đặt quả trứng đứng im mà không lăn đổ.
Tôi chợt nghĩ ở một nơi hoang sơ, thơ mộng, kỳ ảo như thế này mà “lọt vào mắt xanh” của những nhà kinh doanh theo hướng phát triển du lịch cộng đồng, tạo nên những homestay chạy dọc theo những vỉa núi đá lững lờ này thì tuyệt. Con người nơi đây thân thiện, cảnh vật đúng thiên nhiên tạo nếu ai biết tới chắc cũng muốn khám phá, chinh phục. Xin phép anh em họ Vàng khi về dưới xuôi tôi sẽ đem câu chuyện của ngày hôm nay để kể lại.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận