Nỗi buồn của ba – Câu chuyện nhân văn đáng ngẫm

Đêm 28 Tết, đang lơ mơ ngủ, anh cả gọi dựng vợ chồng tôi dậy, giọng điệu nghiêm trọng nói: “Ba đòi cưới vợ đấy, chú liệu mà về khuyên ông!”.

Nỗi buồn của ba – Câu chuyện nhân văn đáng ngẫm

Đêm 28 Tết, đang lơ mơ ngủ, anh cả gọi dựng vợ chồng tôi dậy, giọng điệu nghiêm trọng nói: “Ba đòi cưới vợ đấy, chú liệu mà về khuyên ông!”.

Lúc tôi về, cả nhà đã ngồi đợi sẵn. Anh cả mặt mày nhăn nhó, thằng bốn khoát tay nói thao thao không dứt lời, thằng út cúi mặt cắn hạt dưa. Ba ngồi giữa im lặng, vân vê vết sẹo dài trên bắp tay. Mỗi lần căng thẳng ông lại có thói quen sờ nắn vết sẹo do đạn lạc ấy, điệu bộ như đứa trẻ đang bị cha mẹ trách phạt.

Thực ra, ba chỉ muốn mời cô Điền về ở chung cho có người bầu bạn. Tôi nhớ đã có lần gặp cô, năm ấy tôi lên 7, vào đúng mùa chôm chôm chín rộ. Hồi ấy mẹ đang chạy thận ở Hà Nội, anh cả thì đi học xa, nhà chỉ có 3 ba con xoay xở thu hái chôm chôm. Ba gùi một gùi chất đầy chôm chôm vượt quá đầu, chạy như bay về nhà thì sững lại khi thấy một người phụ nữ đang đứng đợi giữa sân. Ông ngơ ngác: “Ơ, cô Điền phải không?”, nói xong là đứng như trời trồng, mặc kệ đám kiến đang hăng máu, chui cả vào tóc, vào áo mà cắn. Thằng Út đứng cạnh, oang oang gọi: “Ba ơi! Kiến! Để con phủi kiến cho ba!”. Nghe tiếng gọi của con, ba như tỉnh khỏi cơn mê, hất chiếc gùi trên lưng xuống, ngượng ngùng mời khách vào nhà. Cô Điền vào nhà ngồi, lấy từ tay nải ra một lá thư của mẹ cùng bịch kẹo 4 mùa cho chúng tôi.

Mãi sau này, mẹ về nhắc đến người phụ nữ tên Điền ấy thì tôi mới nhận ra, mùa chôm chôm ấy ba đã gặp lại mối tình đầu của mình. Mẹ kể, ba mẹ và cô Điền là người cùng làng, lớn lên cùng nhau. Về sau, ba và cô Điền phải lòng nhau, tình cảm chưa kịp bày tỏ thì ba đi bộ đội, cô Điền cũng đi thanh niên xung phong. Vào kỳ nghỉ phép, ba được về làng mấy ngày, ông bà lo nên hối thúc ba lấy vợ và mối ông bà nhắm sẵn khi ấy là mẹ.

Hết chiến tranh, ba về ới một vết sẹo dài trên cánh tay. Cô Điền cũng mang một vết sẹo lớn dọc bắp chân. Cô ở vậy, mãi đến khi quá lứa lỡ thì mới chịu cưới chồng rồi sinh được một cô con gái. Chồng cô mất sớm, cô ở vậy một mình nuôi con. Còn ba mẹ tôi thì dắt díu nhau vào Nam làm kinh tế, sau đó liền tù tì sinh 4 thằng con trai.

Cuộc sống đang “sông bằng nước cạn” thì mẹ bỗng nhiên đổ bệnh, tay chân sưng phù, đi bệnh viện khám thì bác sĩ chẩn đoán suy thận. Thời ấy, nơi chúng tôi ở, bệnh viện chưa có máy móc điều trị nên mẹ phải ra tận Hà Nội chạy thận hơn chục năm trời. Tình cờ mẹ gặp lại cô Hiền ở đấy, cả hai mừng lắm. Nghe cô nói con gái đã lớn, nay được thảnh thơi, sắp tới sẽ cùng hội cựu chiến binh đi dọc Bắc Nam thăm chiến trường xưa. Thấy vậy, mẹ gửi cô lá thư và bịch kẹo, để nếu tiện đường thì trao cho ba con tôi.

Những năm ấy, một mình ba gánh vác gia đình, quần quật làm việc kiếm tiền tiền gửi ra cho mẹ chạy thận, rồi nuôi bốn thằng con đang tuổi ăn học. Nhiều đêm, các con ngủ, ông vẫn ra vườn cuốc đất. Chiếc áo ông mặc hôm cô Điền đến thăm là một chiếc áo lao động sờn cũ, cổ áo đã gần rớt ra khỏi vai, chỉ có vài sợi vải kéo lại. Tôi ngồi ngoài sân vặt chôm chôm, thỉnh thoảng nhìn vào trong lại thấy ba bối rối đưa tay lên bụm lại chỗ rách.

Mấy chục năm trời, ba tôi sống một quãng đời lặng lẽ. Mẹ đi chạy thận, rồi từng đứa con đi học xa nhà, những món ăn trường kỳ của ba chỉ có cơm với cá khô, rau luộc. Thỉnh thoảng anh em tôi về nhà thăm, nhăn mặt bảo ông hôm nay đừng ăn khô cá nữa. Ông cười cười lôi ra một bịch khô cá khác bảo là “đổi món”. Sau này, bệnh viện tỉnh có máy chạy thận, mẹ được chuyển về đấy cho gần ba. Nói là gần, nhưng ba cũng phải thuê trọ ở thành phố, cạnh bệnh viện. Cuối tuần, ba lại thu xếp công việc nhà, tay xách nách mang bắt xe lên thành phố thăm mẹ.

Bệnh của mẹ chỉ duy trì sự sống bên chiếc máy chạy thận, chẳng đi đâu được, cũng chẳng làm gì được. Bà cố được mười mấy năm thì gặp cơn tai biến. Trong những giây phút cuối đời cũng chỉ có ba túc trực bên mẹ. Ba không khóc, nhưng nhiều ngày trời, ông ngồi lặng lẽ ở cuối vườn, nhìn về hoàng hôn đang dần tắt, đôi mắt đượm buồn.

Sau khi mẹ mất một thời gian, để bớt cô đơn, ba tôi tìm đến thú tiêu khiển mới là chơi cá. Ông thả bể cá đặt ở phòng khách đám cá bảy màu và vài cây rong rêu - loài cây cần chăm sóc kỹ càng, chỉ cần lơ là một ngày, rêu đã ra những tua dài xanh trắng. Ba dành bao nhiêu thời gian cho đám cá với rong rêu ấy lắm. Những lúc chẳng cần chăm sóc gì, ông vẫn lặng người ngồi im trước bể cá, mắt nhìn đăm đăm như bị thôi miên.

Sau đám giỗ đầu của mẹ được ít lâu, ba bất ngờ ngỏ ý với 4 anh em tôi về việc “rổ rá cạp lại” với cô Điền. Trong lần về quê xây mộ cho ông nội ba gặp lại cô. Con gái cô đi du học nước ngoài rồi định cư ở  đó luôn, cô cứ thế một mình lủi thủi “cơm niêu nước lọ”. Hoàn cảnh của ba và Điền cũng tương tự nhau, coi như nối lại mối duyên dang dở. Nhưng anh em tôi, nhất là anh cả và thằng bốn, phản đối kịch liệt cuộc tái hôn này vì thấy “tủi hờn thay phần mẹ”.

Bữa cơm chiều ba mươi Tết, cả nhà tôi quây quần. Anh cả nâng ly, nói bóng gió: “Đấy, gia đình mình đông vui thế này, ba lại sợ cô đơn nỗi gì”. Ba nghe vậy thì nhỏ nhẹ bảo: “Các con đâu thấy cảnh bao nhiêu năm qua ba ngồi ăn cơm một mình, phải không?”.

Hết tết, ba tiễn từng đứa con ra cổng, xua tay: “Thôi, xuống thành phố mà lo làm ăn, đừng lo gì cho ba cả”. Tôi nhìn bóng ông xiêu vẹo, đơn độc trông theo các con, tự nhiên thấy lòng chua xót quá. Cả đời ông không bao giờ trách phạt anh em tôi, cũng chẳng bao giờ phản đối việc chúng tôi yêu ai, cưới ai. Nhưng đến cuối cùng, hạnh phúc của ông lại do anh em tôi quyết định.

Sau khi trở lại thành phố, anh em chúng tôi gặp nhau, suy nghĩ rất lâu rồi quyết định gọi điện cho ba bảo mời cô Điền về ở cùng: “Nếu ba muốn tụi con sẽ tổ chức một đám cưới nhỏ gọn cho ba”. Đầu dây bên kia, ba im lặng một lúc lâu rồi khó khăn thốt ra được 3 từ: “Cảm ơn con”. Nhưng kể cả được chúng tôi đồng ý, mối duyên của ba vẫn không thành. Nghe đâu, con gái cô Điền ở bên kia không cho mẹ đi thêm bước nữa.

Dạo này, mỗi lần về thăm ba, tôi nhận ra ông già đi thật nhanh. Vai ông xụp xuống, tóc rụng nhiều, ánh mắt như phủ một làn sương mờ đục, chất chứa nỗi buồn miên man. Bao nhiêu năm vất vả, dáng ông lúc nào cũng chúi về trước như sắp ngã. Ông vẫn ngồi hàng giờ bên bể cá, chỉ đợi rong rêu dài ra một chút là đứng dậy, cầm kéo cắt. Ba tỉ mẩn, chăm chú làm công việc đơn điệu ấy, như thể nếu lơ là, nỗi cô buồn cũng như rong rêu, quây trói và nuốt chửng lấy mình.

Xem thêm: "Dì nhỏ" của thằng cháu lớn – Câu chuyện nhân văn đáng ngẫm